Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 17/01/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 24/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 01 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 1181/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 448/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2020/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 01 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc T – Sinh năm: 1973. (xin vắng mặt)

Thường trú: Tổ 8, ấp Tân Xuân, xã P, huyện C, tỉnh T.

Tạm trú: 1/171A ấp Nhị Tân 1, xã X, huyện Y, Thành phố Z.

2. Bị đơn: Bà Trần Thị Mỹ K – Sinh năm: 1976. (vắng mặt)

Thường trú: G1/12 ấp Long Thới, xã L, huyện H, tỉnh T.

Tạm trú: 1/171A ấp Nhị Tân 1, xã X, huyện Y, Thành phố Z.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 06.6.2019, bản tự khai, biên bản hòa giải không thành và biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc T trình bày:

Ông và bà Trần Thị Mỹ K tự nguyện tìm hiểu và tiến đến xây dựng gia đình vào năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện H, tỉnh T vào ngày 29/12/2000. Sau khi cưới ông bà chung sống bên gia đình nhà vợ tại Tây Ninh, đến năm 2005 chuyển về sống tại Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc, đến năm 2002 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do công việc làm ăn của ông không suôn sẻ, trong gia đình xảy ra những chuyện không vui, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, quan điểm về cuộc sống không phù hợp dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Mặc dù ông T đã nhiều lần cố gắng hàn gắn nhưng không được.

Nay ông xác định tình cảm của ông đối với bà K không còn, cuộc hôn nhân của ông bà chỉ còn là hình thức nên ông xin ly hôn với bà Trần Thị Mỹ K.

- Về con chung: có 01 con chung Nguyễn Ngọc Phương T, sinh ngày 01.8.2011. Ông T đồng ý giao con chung cho bà K trực tiếp nuôi dưỡng, hiện nay ông làm công việc tài xế nên mỗi tháng ông T cấp dưỡng nuôi con số tiền 2.000.000 đồng.

- Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải không thành, bị đơn bà Trần Thị Mỹ K trình bày:

Bà và ông Nguyễn Ngọc T tự nguyện tìm hiểu và tiến đến xây dựng gia đình vào năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện H, tỉnh T vào ngày 29/12/2000.

Sau khi cưới vợ chồng sống cùng gia đình bà. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc, đến năm 2018 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do mâu thuẫn về tiền bạc dẫn đến cãi nhau, tuy nhiên bà cho rằng đây chỉ là những mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống, không đến mức phải ly hôn nên bà không đồng ý ly hôn với ông T mà xin đoàn tụ.

- Về con chung: có 01 con chung Nguyễn Ngọc Phương T, sinh ngày 01.8.2011. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý, Tòa án đã tổ chức các phiên hòa giải để ông T và bà K thỏa thuận những vấn đề cần giải quyết trong vụ án nhưng các bên không thỏa thuận được. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Về phía bị đơn Trần Thị Mỹ K, Tòa án đã tống đạt niêm yết hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bà K vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn trình bày ý kiến tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo trình tự thủ tục pháp luật quy định đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa ông Nguyễn Ngọc T và bà Trần Thị Mỹ K là tranh chấp Ly hôn theo yêu cầu của một bên được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình. Bị đơn bà Trần Thị Mỹ K hiện đang cư trú tại 1/171A ấp Nhị Tân 1, xã X, huyện Y nên Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử nhận thấy ông Nguyễn Ngọc T và bà Trần Thị Mỹ K tự nguyện xây dựng gia đình từ năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện H, tỉnh T vào ngày 29/12/2000 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Ngọc T: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của hai bên đương sự tại phiên tòa thể hiện ông Nguyễn Ngọc T và bà Trần Thị Mỹ K có thời gian sống chung từ năm 2000 và đã có 01 con chung. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh theo lời trình bày của ông T do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, cả hai không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, cũng như không còn sự tin tưởng nhau. Phía bà K không đồng ý ly hôn vì cho rằng giữa ông bà chỉ phát sinh những mâu thuẫn nhỏ. Trong quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị Mỹ K không đưa ra được biện pháp gì để cải thiện đời sống chung của vợ chồng, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân và không quan tâm đến nhau, thường xuyên chỉ trích nhau. Tòa án đã to điều kiện để ông Nguyễn Ngọc T và bà Trần Thị Mỹ K trở về đoàn tụ với nhau nhưng bà Trần Thị Mỹ K không đến, như vậy việc hàn gắn là không còn biện pháp. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa ông T và bà K đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc ly hôn là cần thiết nên việc ông T yêu cầu ly hôn với bà K là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên có cơ sở chấp nhận.

[3] Về con chung: Ông Nguyễn Ngọc T và bà Trần Thị Mỹ K có 01 con chung Nguyễn Ngọc Phương T, sinh ngày 01.8.2011. Ông T đồng ý giao con cho bà K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền 2.000.000 đồng. Bà K cũng yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay trẻ T đang sống cùng bà K và do bà K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đồng thời trẻ cũng có nguyện vọng sống chung với bà K nên xét thấy việc giao trẻ T cho bà K trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành đảm bảo được sự ổn định và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt. Ghi nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của ông T cho trẻ Phương T mỗi tháng số tiền 2.000.000 đồng cho đến khi trẻ tròn 18 tuổi, thi hành khi án có hiệu lực pháp luật.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Ông Nguyễn Ngọc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 110, 116 và 117 của Luật hôn nhân và gia đình;

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Ngọc T

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Ngọc T được ly hôn bà Trần Thị Mỹ K.

Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Mỹ K về việc yêu cầu được đoàn tụ với ông Nguyễn Ngọc T.

2. Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Ngọc Phương T, sinh ngày 01.8.2011 cho bà Trần Thị Mỹ K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ông Nguyễn Ngọc T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng cho đến khi trẻ tròn 18 tuổi, thi hành ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc khi có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông T không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ số tiền như đã được ghi nhận trong quyết định này thì hàng tháng sẽ còn phải chịu thêm khoản tiền lãi được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Vì lợi ích con chung, bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến quyền này. Khi cần thiết, theo yêu cầu của một hoặc hai bên Toà án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Án phí DSST: Ông Nguyễn Ngọc T chịu là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được tính cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai số 0013554 ngày 11.6.2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.

Án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng ông Nguyễn Ngọc T chịu. Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 17/01/2020 về ly hôn

Số hiệu:24/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về