Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 24/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 451/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm: 1986; ĐKTT: Ấp 6, thị trấn G, huyện G1, tỉnh Bến Tre. Tạm trú: Âp B, xã B1, huyện G, tỉnh Bến Tre.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T1, sinh năm: 1979; ĐKTT: Ấp 6, thị trấn G, huyện G1, tỉnh Bến Tre. Hiện tại đang chấp hành án tại trại giam C.

(Chị T có mặt; Anh T1 vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải cùng các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị T trình bày:

Chị T và anh T1 sau thời gian tìm hiểu hai bên tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không hợp ý nhau, anh T1 thường xuyên cờ bạc không lo cho cuộc sống gia đình. Chị T và gia đình nhiều lần khuyên can và trả nợ thay cho anh T1 nhưng anh T1 không thay đổi. Vào năm 2018, anh T1 phạm tội và hiện đang chấp hành án tại Trại giam C, thời gian chấp hành án là 07 năm. Hiện nay chị khẳng định không còn tình cảm anh T1, không T chung sống được nữa nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: Xin được ly hôn với anh Nguyễn Thanh T1.

-Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung tên Nguyễn M, sinh ngày 25/11/2007 và Nguyễn Thị V, sinh ngày 18/6/2010. Con chung hiện đang sinh sống với chị T. Chị T yêu cầu được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục 02 con chung, hiện tại chị buôn bán đủ điều kiện kinh tế nuôi hai con nên chị không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con.

-Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

Theo bản tự khai, biên bản hòa giải, đơn xin vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Thanh T1 trình bày:

Anh T1 thống nhất với chị T về thời gian và điều kiện kết hôn, cũng như nơi đăng ký kết hôn. Mâu thuẫn như lời trình bày của chị T là đúng, vợ chồng ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Hiện tại anh còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn. Về con chung, nếu ly hôn anh đồng ý giao hai con chung cho chị T nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung không có.

Đi diện viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu:

-Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử là đúng quy định; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng là đúng quy định.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T. Về con chung: Hiện con chung đang sống với chị T vì vậy đề nghị giao 02 con chung tên Nguyễn M, sinh ngày 25/11/2007 và Nguyễn Thị V, sinh ngày 18/6/2010 cho chị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận chị T không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị T khởi kiện xin ly hôn với anh T1, anh T1 có nơi cư trú và hiện đang chấp hành án tại trại giam C, huyện G, tỉnh Bến Tre. Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh T1 có đơn xin giải quyết vắng mặt vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T1 là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị T và anh T1 cưới nhau vào năm 2007, hôn nhân do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân thị trấn G, huyện G1, tỉnh Bến Tre nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi cưới nhau, thời gian đầu anh chị sống hạnh phúc, đến năm 2010 phát sinh mâu thuẫn. Anh chị đều thống nhất nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn chính là do anh T1 không lo làm ăn, thường xuyên cờ bạc gây nợ nần. Chị T nhiều lần khuyên căn nhưng anh T1 không thay đổi, đến năm 2018 anh T1 phạm tội và đang chấp hành hình phạt tù. Hiện tại anh chị không T chung sống với nhau và chị T kiên quyết xin ly hôn với anh T1. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên hòa giải để tạo điều kiện hàn gắn cho anh chị. Tại buổi hòa giải ngày 17/01/2020, anh T1 T hiện ý kiến đồng ý ly hôn với chị T nhưng sau đó anh T1 có văn bản thay đổi ý kiến không muốn ly hôn. Tòa án đã tiến hành làm việc động viên chị T nhưng chị T vẫn kiên quyết xin ly hôn với anh T1.

Hi đồng xét xử xét thấy, hiện tại chị T không còn tình cảm với anh T1, T hiện ý kiến kiên quyết xin ly hôn với anh T1, anh chị đã ly thân từ năm 2018 đến nay, đồng thời anh T1 đang chấp hành án không T cùng chung sống với chị T. Đồng thời thực tế hai bên cũng thừa nhận mâu thuẫn giữa hai anh chị đã xảy ra từ năm 2010 đến nay. Xét thấy, hôn nhân được xác lập trên cơ sở tự nguyện, tuy anh T1 mong muốn hàn gắn nhưng chị T kiên quyết xin ly hôn. Do đó có T thấy hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không T kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị T là có cơ sở chấp nhận.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung tên Nguyễn M, sinh ngày 25/11/2007 và Nguyễn Thị V, sinh ngày 18/6/2010. Con hiện đang sống chung với chị T. Chị T có yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi hai con chung, yêu cầu của chị cũng phù hợp với nguyện vọng của 02 con chung là mong muốn được sống với chị. Do đó xét yêu cầu xin nuôi 02 con chung của chị T là phù hợp nên được chấp nhận. Ghi nhận chị T không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con.

Anh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một, cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có T quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh T1 đều khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị T là người khởi kiện nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 116 Luật hôn nhân gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị T, cụ T tuyên:

[1] Về hôn nhân: Chị Lê Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Thanh T1.

[2] Về con chung: Chị Lê Thị T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung tên Nguyễn M, sinh ngày 25/11/2007 và Nguyễn Thị V, sinh ngày 18/6/2010 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ghi nhận chị Lê Thị T không yêu cầu anh Nguyễn Thanh T1 cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Thanh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một, cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có T quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lê Thị T và anh Nguyễn Thanh T1 đều khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Lê Thị T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0010059 ngày 17 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

[5] Về quyền kháng cáo bản án: Chị Lê Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày tuyên án là ngày 08/5/2020), anh Nguyễn Thanh T1 được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:24/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về