Bản án 24/2020/DS-ST ngày 25/08/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 24/2020/DS-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 162/2020/TLST-DS, ngày 18/6/2020 về việc “Tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2020/QĐXXST-DS, ngày 10/8/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1971. Địa chỉ cư trú: ấp Đ, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Phan Văn D, sinh năm 1989 (xin vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Bà Phạm Thị Trúc L, sinh năm 1979 (có mặt). Địa chỉ cư trú: ấp Đ, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1969 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp Đ, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 29/5/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị D và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là anh Phan Văn D trình bày: Từ năm 2013, bà Nguyễn Thị D và bà Phạm Thị Trúc L, ông Nguyễn Văn S có hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi, hai bên thỏa thuận bà Nguyễn Thị D bán thức ăn cho bà Phạm Thị Trúc L, ông Nguyễn Văn S đến khi bán heo sẽ thanh toán tiền theo mỗi đàn heo. Đến năm 2017 thì kết thúc việc mua bán, bà Phạm Thị Trúc L và ông Nguyễn Văn S còn nợ bà Nguyễn Thị D số tiền 314.800.000 đồng và bà Phạm Thị Trúc L có ký xác nhận nợ. Đến tháng 02/2020 bà Phạm Thị Trúc L có trả cho bà Nguyễn Thị D số tiền 5.000.000 đồng, còn nợ lại 309.800.000 đồng thì không trả nữa. Nay bà Nguyễn Thị D yêu cầu bà Phạm Thị Trúc L và ông Nguyễn Văn S phải liên đới hoàn trả cho bà Nguyễn Thị D số tiền 309.800.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Phạm Thị Trúc L trình bày: Bà Phạm Thị Trúc L là người trực tiếp giao dịch mua thức ăn chăn nuôi với bà Nguyễn Thị D, quá trình hai bên thỏa thuận mua bán giống như lời trình bày của bà Nguyễn Thị D. Nay bà Phạm Thị Trúc L còn nợ bà Nguyễn Thị D số tiền mua thức ăn chăn nuôi là 309.800.000 đồng yêu cầu xin trả dần, cụ thể mỗi năm sẽ trả 40.000.000 đồng cho đến khi hết nợ, việc mua thức ăn là để chăn nuôi phát triển kinh tế gia đình.

Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn S trình bày: Ông Nguyễn Văn S là chồng bà Phạm Thị Trúc L, việc bà Phạm Thị Trúc L mua thức ăn của bà Nguyễn Thị D là để chăn nuôi phát triển kinh tế gia đình, nay ông đồng ý cùng bà Phạm Thị Trúc L liên đới trả nợ cho bà Nguyễn Thị D số tiền 309.800.000 đồng nhưng yêu cầu xin trả dần như ý kiến của bà Phạm Thị Trúc L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và nội dung vụ án, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp đối với vụ án là “Tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản” được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 430 Bộ luật dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Bị đơn bà Phạm Thị Trúc L có nơi cư trú tại ấp Đ, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.

[2] Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là anh Phan Văn D có yêu cầu xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt anh Phan Văn Dũ.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bà Phạm Thị Trúc L thừa nhận còn nợ bà Nguyễn Thị D số tiền 309.800.000 đồng nhưng các đương sự không thống nhất với nhau về phương thức trả nợ. Bà Phạm Thị Trúc L yêu cầu xin trả dần mỗi năm 40.000.000 đồng cho đến khi hết nợ nhưng bà Nguyễn Thị D không chấp thuận. Hội đồng xét xử xét thấy bà Phạm Thị Trúc L đã không thực hiện đúng việc trả tiền là vi phạm nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà Nguyễn Thị D nên căn cứ vào Điều 440 Bộ luật dân sự buộc bà Phạm Thị Trúc L phải có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho bà Nguyễn Thị D số tiền 309.800.000 đồng là phù hợp.

[4] Đối với ông Nguyễn Văn S là chồng của bà Phạm Thị Trúc L, việc bà Phạm Thị Trúc L mua thức ăn của bà Nguyễn Thị D là để chăn nuôi phát triển kinh tế gia đình và ông Nguyễn Văn S cũng đồng ý liên đới cùng bà Phạm Thị Trúc L trả nợ cho bà Nguyễn Thị D nên căn cứ vào Điều 27, 37 Luật Hôn nhân và gia đình buộc ông Nguyễn Văn S phải liên đới cùng bà Phạm Thị Trúc L hoàn trả cho bà Nguyễn Thị D số tiền 309.800.000 đồng.

[5] Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bà Phạm Thị Trúc L và ông Nguyễn Văn S phải liên đới nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5% đối với số tiền phải hoàn trả cho bà Nguyễn Thị D là 309.800.000 đồng x 5% = 15.490.000 đồng.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 357, 430, 440 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 27, 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc bà Phạm Thị Trúc L và ông Nguyễn Văn S có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho bà Nguyễn Thị D số tiền 309.800.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hằng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

[2] Về nghĩa vụ nộp án phí:

Buộc bà Phạm Thị Trúc L và ông Nguyễn Văn S phải liên đới nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 15.490.000 đồng.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị D số tiền tạm ứng án phí đã nộp 7.745.000 đồng theo biên lai thu số 00xxxxx, ngày 18/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre.

[3] Về quyền kháng cáo:

Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[4] Về việc thi hành bản án khi có hiệu lực pháp luật:

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/DS-ST ngày 25/08/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán tài sản

Số hiệu:24/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về