Bản án 24/2019/HSST ngày 23/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BUÔN ĐÔN, TỈNH ĐĂKLĂK

BẢN ÁN 24/2019/HSST NGÀY 23/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 23/8/2019 tại Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2019/HSST ngày 25/7/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2019/QĐXXST-HS ngày 06/8/2019 và quyêt định hoãn phiên tòa số 01/2019/HSST-QĐ ngày 20/8/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Y H Ksơr, Sinh ngày 15/5/2002, tại tỉnh Đắk Lắk. Trú tại: Buôn S, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê đê; Tôn giáo: Công giáo; Nghề nghiêp: Làm nông; Trình độ học vấn: 3/12;

Họ và tên cha: Y W Byă, sinh năm: 1979;

Họ và tên mẹ: Hồ Thị Tuyết N (mẹ đẻ, không rõ năm sinh và nơi cư trú); Họ và tên mẹ kế : H’ D Ksơr, Sinh năm 1985.

Tiền sự, tiền án: Không:

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/7/2019 đến nay – có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và đồng thời là gười đại diện hợp pháp cho bị cáo Y H Ksơr: Ông Y W Byă – sinh năm 1979 và bà H’D Ksơr – sinh năm 1985. Nơi cư trú: Buôn S, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk –đều có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Y H Ksơr: Luật sư Phùng Văn H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà Nước tỉnh Đắk Lắk – có mặt.

Nguời bị hại: Anh Y N Ayun – sinh năm 1983.

Nơi cư trú: Buôn K, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk vắng mặt lần hai.

Những người làm chứng:

- Bà H Byă – sinh năm 1977.

Nơi cư trú: Buôn S, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk– có mặt.

- Bà H’W Byă – sinh năm 1977.

Nơi cư trú: Buôn S, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk – vắng mặt.

- Anh Y Đ H’Mok – sinh năm 1999.

Nơi cư trú: Buôn K, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – có mặt - Ông Lê Thành K – sinh năm 1967.

Nơi cư trú: Buôn K, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk – vắng mặt.

Người phiên dịch cho bị cáo: Ông Y Byă – Công tác tại Phòng Tư pháp huyện B – có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào năm 2001, ông Y W Byă chung sống với bà Hồ Thị Tuyết N (không rõ năm sinh và nơi cư trú), đến ngày 15/5/2002 sinh được 01 đứa con chung tên là Y H Ksơr. Sau khi sinh Y H Ksơr được 28 tháng tuổi, bà N bỏ đi và mất liên lạc với ông Y W Byă; Sau đó, ông Y W Byă kết hôn với bà H’ D Ksơr, sinh năm 1985 cùng trú tại Buôn S, xã C, huyện M, lúc này ông Y W Byă đến Uỷ ban nhân dân xã C đăng ký khai sinh cho Y H Ksơr, đồng thời khai tên mẹ Y H Ksơr là bà H’ D Ksơr. Vào ngày 16/12/2018, Y H Ksơr cùng bạn đến Buôn K, xã E, huyện B chơi và uống rượu, đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Y H Ksơr đến quán bia “T” thuộc Buôn K, xã E, huyện B chơi, đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Y H Ksơr ra phía ngoài sân quan sát phát hiện chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47B2 – 035.49 của Y N Ayun, sinh năm 1993 trú tại Buôn K, xã E, huyện B là người đến chơi bi da trong quán “T” không có ai trông coi quản lý, nên Y H Ksơr nảy sinh ý định trộm chiếc xe mô tô này, Y H Ksơr đã lén lút bí mật tiếp cận chiếc xe mô tô, dùng tay bật khoá để mở khoá điện khởi động được xe và điều khiển xe mô tô về nhà bà H’W Byă , trú tại Buôn S , xã C, huyện M cất dấu. Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 17/12/2018 khi Y H Ksơr đang tháo một số bộ phận xe mô tô biển kiểm soát 47B2-035.49 thì bị ông Y N và Cơ quan Công an phát hiện nên Y H Ksơr đã để xe mô tô lại và bỏ trốn.

Ti biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 17/12/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện B xác định: Hiện trường vụ Trộm cắp tài sản xảy ra ngày 16/12/2018 tại quán bi da “T” của chị Huỳnh Thị T thuộc Buôn K, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.

Ti Bản kết luận định giá tài sản số 44/KL-ĐGTS ngày 28/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện B kết luận chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47B2-035.49 có giá trị là: 3.000.000đ (Ba triệu đồng).

Quá trình điều tra xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án, nên ngày 28/5/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 288 trả lại xe môtô biển kiểm soát 47B2-035.49 cho anh Y N Ayun là chủ sơ hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự: Sau vụ án xảy ra giữa gia đình bị cáo và bị hại đã tự thỏa thuận bồi thường xong số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) cho bị hại. Trong quá trình điều tra anh Y N Ayun không yêu cầu bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại Bản cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 25/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Y H Ksơr về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Ti phiên toà hôm nay bị cáo Y H Ksơr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B và không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, đánh giá, phân tích những chứng cứ xác định hành vi phạm tội, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, và giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Y H Ksơr phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; Điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khon 1 Điều 54; Điều 90; Điều 91; khoản 4 Điều 98 và Điều 101 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Y H Ksơr từ 03 (ba) tháng đến 06 (sáu) tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Cần chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện B đã ra quyết định xử lý vật chúng số 288 ngày 28/5/2019 cho anh Y N Ayun chiếc xe môtô biển kiểm soát 47B2-035.49 là chủ sơ hữu hợp pháp là phù hợp.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu ý kiến gì thêm nên không đặt ra để giải quyết.

Người bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Viện kiểm sát truy tố bị cáo Y H Ksơr về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp. Hành vi do bị cáo không những xâm phạm trái phép đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trị an tại địa phương. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo như tự nguyện khắc phục hậu quả, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, là người dân tộc thiểu thiểu số được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Khi phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi nhận thức có phần hạn chế, do đó cần cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo Y H Ksơr tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 20 giờ ngày 16 tháng 12 năm 2018, tại Buôn K, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk, Y H Ksơr đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe môtô biển kiểm soát 47B2-035.49, của anh Y N Ayun. Tài sản theo kết quả định giá có giá trị là: 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

Hành vi do bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại và còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng vì tham lam, vụ lợi, muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu xài nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo Y H Ksơr đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, đúng như ý kiến của người bào chữa cho bị cáo và bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật cần chấp nhận.

Tại Điều 173. Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm;

[3] Vể tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm b (tự nguyện khắc phục hậu quả), điểm h (phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn), điểm i (phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng), điểm s (thành khẩn khai báo) thuộc khoản 1 và khoản 2 ( là người dân tộc thiểu thiểu số) của Điều 51 Bộ luật hình sự; Khi phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi (16 tuổi 07 tháng 01 ngày) nhận thức có phần hạn chế, do đó cần áp dụng các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để xử lý.

[4] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về xử lý vật chứng: Cần chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện B đã ra quyết định xử lý vật chúng số 288 ngày 28/5/2019 cho anh Y N Ayun chiếc xe môtô biển kiểm soát 47B2-035.49 là chủ sơ hữu hợp pháp là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu ý kiến gì thêm nên không đề cập giải quyết.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Y H Ksơr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1/ Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; Điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khon 1 Điều 54; Điều 90; Điều 91; khoản 4 Điều 98 và Điều 101 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Y H Ksơr 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18/7/2019.

2/ Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện B đã ra quyết định xử lý vật chúng số 288 ngày 28/5/2019 cho anh Y N Ayun chiếc xe môtô biển kiểm soát 47B2-035.49 là chủ sơ hữu hợp pháp là phù hợp.

3/Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu ý kiến gì thêm nên không đặt ra để giải quyết

4/ Về chi phí tố tụng: Áp dụng Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo Y H Ksơr thuộc hộ nghèo nên được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần có liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HSST ngày 23/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:24/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Buôn Đôn - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về