Bản án 24/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 24/2019/HS-ST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại Phòng xử án A trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần B, sinh ngày xx tháng yy năm 1996; nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Thôn Hải Lạc, xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở: Không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần K và bà Tần Xịt L; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày: 23/11/2018 (có mặt).

Bị hại: Anh Phạm Đại T, sinh năm 1992; địa chỉ: xx đường yy, Phường 6, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 17/11/2018, anh Phạm Đại T là nhân viên quản lý cửa hàng kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử số 227 – 229 đường Hàn Hải Nguyên, Phường 2, Quận 11 nằm ngủ gần cửa ra vào và để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus đang sạc pin. Đến khoảng 8 giờ cùng ngày, anh T phát hiện điện thoại di động của mình bị mất trộm. Qua kiểm tra hệ thống camera an ninh của cửa hàng, anh T phát hiện có 01 người thanh niên đã lấy trộm chiếc điện thoại di động của mình. Đến khoảng 23 giờ ngày 21/11/2018, anh T cùng bạn tên Đỗ Văn Tuấn đi công việc trên đường Thái Phiên, Phường 8, Quận 11 thì anh T nhìn thấy Trần B có đặc điểm giống với người thanh niên lấy trộm chiếc điện thoại của anh T vào sáng ngày 17/11/2018 nên bắt giữ giao Công an Phường 2, Quận 11 sự việc được lập hồ sơ chuyển Công an Quận 11.

Theo Kết luận định giá tài sản số 120/KLĐGTS ngày 22/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 11 kết luận: Chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu hồng đã qua sử dụng, tại thời điểm định giá ngày 17/11/2018 là 4.000.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Trần B khai nhận: Vào khoảng 07 giờ ngày 17/11/2018, B đi bộ đến cửa hàng kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử số 227 - 229 đường Hàn Hải Nguyên, Phường 2, Quận 11 để chơi. Khi mở cửa vào bên trong cửa hàng, B nhìn thấy có ba người nằm ngủ nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. B quan sát xung quanh thì thấy anh T đang nằm ngủ có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone đang sạc pin nên lén lút đến gần dùng tay trái rút điện thoại ra khỏi dây sạc, cất vào túi quần bên phải, rồi đi ra ngoài. Sau khi lấy trộm được chiếc điện thoại, B đem cầm cho tên Phát (không rõ lai lịch) được số tiền là 1.100.000 đồng và đã tiêu xài hết số tiền này. Khoảng 23 giờ ngày 21/11/2018, B đi bộ trên đường Thái Phiên, Phường 8, Quận 11 thì bị anh T bắt giữ. Đối với tên Phát là người cầm chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus là tài sản Trần B chiếm đoạt của anh T đến nay chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 chưa thu hồi được vật chứng của vụ án là chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus.

Vật chứng vụ án: 01 USB do anh Phạm Đại T giao nộp có ghi hình ảnh vụ trộm cắp tài sản được trích xuất từ Camera an ninh của cửa hàng kinh doanh trò chơi điện tử số 227 – 229 đường Hàn Hải Nguyên, Phường 2, Quận 11, kèm theo hồ sơ vụ án.

Về dân sự: Anh Phạm Đại T yêu cầu Trần B bồi thường chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, trị giá 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

Tại bản Cáo trạng số 17/CT-VKSQ.11 ngày 18 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã truy tố bị cáo Trần B tội danh “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo B có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù; đồng thời đề nghị xử lý vật chứng và trách nhiện dân sự như sau:

- Vật chứng vụ án: Lưu vào hồ sơ vụ án 01 USB do anh Phạm Đại T giao nộp có ghi hình ảnh vụ trộm cắp tài sản được trích xuất từ Camera an ninh của cửa hàng kinh doanh trò chơi điện tử số 227 – 229 đường Hàn Hải Nguyên, Phường 2, Quận 11.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Trần B bồi thường cho anh Phạm Đại T giá trị chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus với số tiền là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Các lời khai nhận của bị cáo Trần B tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và các tang vật thu giữ được. Do đó, có đủ cơ sở để xác định:

Vào sáng ngày 17/11/2018, tại cửa hàng kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử số 227 – 229 đường Hàn Hải Nguyên, Phường 2, Quận 11, bị cáo Trần B đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu hồng, trị giá 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) của anh Phạm Đại T.

Bị cáo nhận thức rõ được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì tính tư lợi, lười lao động bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật B vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần B phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn và chấp nhận bồi thường cho người bị hại; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về xử lý vật chứng: Lưu vào hồ sơ vụ án 01 USB do anh Phạm Đại T giao nộp có ghi hình ảnh vụ trộm cắp tài sản được trích xuất từ Camera an ninh của cửa hàng kinh doanh trò chơi điện tử số 227 – 229 đường Hàn Hải Nguyên, Phường 2, Quận 11.

Về trách nhiệm dân sự: Theo Kết luận định giá tài sản số 120/KLĐGTS ngày 22/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 11 kết luận: Chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu hồng đã qua sử dụng, tại thời điểm định giá ngày 17/11/2018 là 4.000.000 đồng. Tại cơ quan điều tra, anh Phạm Đại T yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị chiếc điện thoại di động với số tiền là 4.000.000 đồng nên việc buộc bị cáo bồi thường cho anh Phạm Đại T số tiền trên là phù hợp, cần được chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo hoàn cảnh khó khăn nên không cần bắt bị cáo phải chịu phạt tiền.

2. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 50; khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Trần B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần B 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/11/2018.

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Lưu vào hồ sơ vụ án 01 USB có ghi hình ảnh vụ trộm cắp tài sản được trích xuất từ Camera an ninh của cửa hàng kinh doanh trò chơi điện tử số 227 – 229 đường Hàn Hải Nguyên, Phường 2, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015,

Buộc bị cáo bồi thường cho anh Phạm Đại T số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng). Việc bồi thường phải được thực hiện ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Trần B chậm thực hiện việc bồi thường thì bị cáo phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Án phí hình sự, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Án phí dân sự, bị cáo phải chịu là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

512
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:24/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về