Bản án 24/2019/HS-ST ngày 08/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 24/2019/HS-ST NGÀY 08/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 11/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Kiều M, sinh năm: 1992, nơi sinh Lâm Đồng; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: 65 Thôn P - xã Ph- huyện Đ- tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Không. Trình độ văn hóa 10/12; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh, Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1969 và bà Dương Thị L, sinh năm 1972; Anh chị em ruột: Bị cáo có 03 anh em ruột, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Chồng: Đặng Xuân M, sinh năm 1977 (Đã ly hôn); Con: có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/10/2018 tại nhà tạm giữ Công an huyện Đức Trọng. (Có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đăng C, sinh năm 1988; Trú tai: 26/18 thôn Finôm, xã Hiệp Thạnh, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. (Vắng mặt tại phiên tòa và có xin xét xử vắng mặt)

Người làm chứng: Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1988; Trú tai: Thôn Srê đăng, xã N’ Thôn Hạ, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 21 giờ 30 phút ngày 25/10/2018 trước nhà nghỉ Bình An thuộc thôn srê đăng, xã N’Thôn Hạ, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Cơ quan Công an huyện Đức Trọng tiến hành kiểm tra hành chính đối với Nguyễn Thị Kiều M đang điều khiển xe mô tô biển số 49B1- 589.27. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần bên trái mà bị cáo M đang mặc trên người có 02 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy và 01 chiếc ống bằng thủy tinh uốn cong ở một đầu. Công an huyện Đức Trọng đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và tiến hành niêm phong 02 gói nylon nghi là ma túy gửi giám định. Tại cơ quan điều tra bị cáo M khai nhận: Vào ngày 21/10/2018 bị cáo M đi khám bệnh tại thành phố Hồ Chí Mnh, sau khi khám bệnh xong thị bị cáo liền nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Bị cáo M đến một con hẻm thuộc Quận 10, thành phố Hồ Chí Mnh tìm gặp và mua của một người đàn ông tên Trung (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) mua 02 gói ma túy với giá tiền 2.000.000đồng, sau đó bị cáo M đón xe quay về Đức Trọng.

Tối ngày 25/10/2018 bị cáo M dấu 02 gói ma túy và 01 chiếc ống bằng thủy tinh dùng để sử dụng ma túy trong túi quần rồi cùng bạn là Nguyễn Thị Thanh Ngân, sinh năm 1988 và Nguyễn Đăng C, sinh năm 1988 đi uống cà phê tại quán cà phê Tình Khúc thuộc thị trấn Liên Nghĩa. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày M mượn xe máy Honda Wave RSX màu đỏ đen mang biển kiểm soát 49B1- 589.27 của C nói đi việc riêng rồi điều khiển xe chạy vào xã N’ Thôn Hạ. Khi bị cáo M đang tìm chỗ để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 1756/GĐ-PC09 ngày 27/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể đựng trong 02 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,7865g, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ.

Về vật chứng thu giữ: Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Trọng thu giữ: 02 gói nylon ma túy, 01 chiếc ống bằng thủy tinh uốn cong một đầu, 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng , 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 49B1- 589.27 giấy đăng ký xe tên Nguyễn Đặng C. Đối với 01 xe máy Honda Wave RSX màu đỏ đen mang biển kiểm soát 49B1- 589.27 giấy đăng ký xe tên Nguyễn Đặng C. Khi C cho bị cáo M mượn xe máy không biết M sử dụng phương tiện để thực hiện hành vi phạm pháp nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Đăng C theo biên bản trả lại đồ vật, tài liệu ngày 28/11/2018. Anh C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm. Hiện các vật chứng trên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Trọng đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Trọng chờ xử lý.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng thực hành quyền công tố đã phân tích, chứng Mnh hành vi phạm tội và đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Kiều M và vẫn giữ nguyên Bản cáo trạng số 06/CT - VKS ngày 29 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng truy tố bị cáo Nguyễn Thị Kiều M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo M theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kiều M từ 01 đến 02 năm tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng đối với bị cáo M.

Ý kiến của bị cáo M: Bị cáo thừa nhận có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như Bản cáo trạng của Viện kiểm sát huyện Đức Trọng đã truy tố và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Trọng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Kiều M phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, Biên bản lấy lời khai, Biên bản hỏi cung, phù hợp với nội dung Bản cáo trạng và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở khẳng định: Bị cáo Nguyễn Thị Kiều M là đối tượng nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng cho bản thân nên vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 25/10/2018 cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Đức Trọng bắt quả tang bị cáo M đang có hành vi tàng trữ 02 gói là ma túy đá. Tại bản kết luận giám định số 1756/GĐ-PC09 ngày 27/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể đựng trong 02 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,7865g, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, như vậy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Kiều M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Xét tính mức độ nguy hiểm cho xã hội của bị cáo Nguyễn Thị Kiều M thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo Nguyễn Thị Kiều M có đầy đủ năng lực pháp luật hình sự, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm, biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo đã mua và cất giấu ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự trị an xã hội, xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy thể hiện sự coi thường pháp luật, nên cần phải xử lý bị cáo thật nghiêm mới có tác dụng rằn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng lượng hình Hội đồng xét xử áp dung tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo Nguyễn Thị Kiều M khi quyết định hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và là người nghiện ma túy nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo M.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án: Tang vật của vụ án gồm: Đối với 01 phong bì niêm phong số 1756/2018 “Hoàn mẫu : 0,9991” có đóng dấu của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng, 01 phong bì niêm phong số 1756/2018 “Bao gói” có đóng dấu của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng, 01 chiếc ống thủy tinh uốn cong một đầu là loại nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với Một điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng, loại điện thoại mà hình cảm ứng (không kiểm tra chất lượng bên trong) không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo M là phù hợp theo quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Hiện đang do chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Trọng tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/01/2019.

Đối với người đàn ông tên Trung sống tại Thành phố Hồ Chí Mnh là người đã bán ma túy cho bị cáo M, do thông tin đối tượng không rõ rang cụ thể, không có cơ sở để xác Mnh đối tượng nên tách ra xử lý sau.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kiều M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kiều M 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/10/2018.

2. Về các biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuyên tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong màu trắng số 1756/2018 có đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng và 01 chiếc ống thủy tinh uốn cong một đầu.

Áp dụng điểm a, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên trả lại cho bị cáo M 01( Một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng, loại điện thoại mà hình cảm ứng (không kiểm tra chất lượng bên trong). Hiện đang do chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Trọng tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/01/2019.

Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, Mễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Kiều M phải nộp 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Đăng C vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HS-ST ngày 08/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Trọng - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về