Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 21/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Huế (số 60 Nguyễn Huệ - Huế) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 151/2019/TLST-HNGĐ ngày 18/3/2019; Về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số: 162/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Mã Tố L, sinh năm 1979. Nơi cư trú: 398 đường B, phường P, thành phố Huế, có mặt.

Bị đơn: Anh Phan T, sinh năm 1980. Nơi cư trú: 398 đường B, phường P, thành phố Huế, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 05/3/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Mã Tố L đều trình bày:

Chị và anh Phan T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, thành phố Huế vào ngày 02/3/2000. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau ở nhà bố mẹ anh T. Qúa trình chung sống với nhau ngay từ đầu đã không có hạnh phúc, đến năm 2007 thì mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh T nghiện ma tuý, hay đe doạ giết chị và hai con. Mặt khác, anh T không có nghề nghiệp, không lo làm ăn, không quan tâm gì đến vợ con nên từ tháng 01 năm 2019 cho đến nay thì vợ chồng chị sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn anh T để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị L xác định chị và anh T có 02 con chung là Phan Tố T, sinh ngày 23/01/2005 và Phan Hân N, sinh ngày 19/3/2012, hiện đang ở với chị.

Nếu ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai cháu và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L xác định chị và anh T không có tài sản chung, nợ chung và không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Phan T không có văn bản trình bày ý kiến gửi Tòa án, không đến Toà án để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Tại phiên toà, anh T vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Tại biên bản lấy khai ngày 05/7/2019, bà Trần Thị M (mẹ của chị Mã Tố L) trình bày: Sau khi kết hôn, vợ chồng chị Mã Tố L và anh Phan T sống tại nhà bố mẹ anh T. Qúa trình chị L anh T chung sống với nhau ngay từ đầu đã không có hạnh phúc. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh T không có nghề nghiệp, ham chơi, nghiện ma tuý nên tất cả đồ dùng trong gia đình đều đem đi bán hoặc cầm cố. Mặt khác còn đánh đập vợ. Chị L bức xúc nên đã nhiều lần nhờ Công an phường can thiệp nhưng không giải quyết được. Đến tháng 01/2019 thì chị L trở về sống tại nhà bà từ đó cho đến nay, vợ chồng cũng không liên lạc gì với nhau. Nay chị L xin ly hôn anh T thì bà đề nghị Toà án giải quyết cho chị L được ly hôn anh T.

Tại biên bản xác minh ngày 24/4/2019 đối với Ủy ban nhân dân phường P, thành phố Huế, thể hiện: Chị Mã Tố L và anh Phan T đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thành phố Huế vào ngày 02/3/2000. Về mâu thuẫn giữa vợ chồng anh T chị L thì địa phương không nắm rõ. Nhưng hiện nay chị L đã trở về nhà mẹ đẻ sinh sống, còn anh T vẫn cư trú tại 398 đường B, phường P, thành phố Huế.

Tại biên bản xác minh ngày 04/6/2019.đối với Công an phường P, thành phố Huế, thể hiện:Anh Phan T có hộ khẩu thường trú tại 398 đường B, phường P, thành phố Huế. Qúa trình sinh sống tại địa phương, anh T có nghiện ma tuý và có hành vi doạ đánh giết vợ con. Chị L có trình báo tại Công an phường Phú Cát- thành phố Huế.

Tại phiên tòa, chị Mã Tố L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, xin ly hôn anh T, được trực tiếp nuôi 02 con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế có ý kiến:

[1] Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng:

Vic tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Quyền và nghĩa vụ của bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử đã không thực hiện đúng các quy định tại khoản 16 Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014khon 1 Điều 28, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Chấp nhận đơn ly hôn của chị Mã Tố L. Cho chị L được ly hôn với anh Phan T.

Về con chung: Hiện nay hai cháu Phan Tố T và Phan Hân N đang ở với chị L ổn định nên cần giao hai cháu cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Viện kiểm sát không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị L không yêu cầu Toà án giải quyết nên Viện kiểm sát không xem xét.

Buộc chị Mã Tố L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Mã Tố L khởi kiện xin ly hôn anh Phan T. Nơi cư trú: 398 đường B, phường P, thành phố Huế. Do đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Anh Phan T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia tố tụng tại phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Anh Phan T và chị Mã Tố L có quá trình chung sống với nhau, trên cơ sở tự nguyện, hai bên đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế vào ngày 02/3/2000 (số 15/2000). Như vậy, hôn nhân giữa anh T và chị L là hợp pháp.

[2.2] Về yêu cầu ly hôn:

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Mã Tố L đối với anh T, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo trình bày của chị L thì nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do anh T không có nghề nghiệp, không lo làm ăn, nghiện ma tuý, hay đe doạ dùng vũ lực với vợ con, vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay là phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được. Như vậy, có cơ sở xác định đời sống chung hiện nay giữa anh T và chị L không tồn tại.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Toà án đã nhiều lần tống đạt giấy triệu tập, nhưng anh T vẫn không đến Toà án để làm việc, hòa giải và không tham gia xét xử tại phiên tòa, không liên lạc với chị L là thể hiện sự bỏ mặc, không có thiện chí mong muốn để hòa giải đoàn tụ gia đình, nên mục đích hôn nhân là không thể đạt được.

Xét thấy hôn nhân giữa anh T và chị L đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân không còn tồn tại trên thực tế, nên Hội đồng xét xử cần áp dụng điều 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận đơn của chị L, cho chị L được ly hôn anh T.

[2.3] Về con chung:

Chị L và anh T có hai con chung là Phan Tố T, sinh ngày 23/01/2005 và Phan Hân N, sinh ngày 19/3/2012.

Xét yêu cầu được trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của chị L, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các cháu T và N từ khi sinh ra và cho đến nay đều cùng ở với chị L và do chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Các cháu đều có nguyện vọng tiếp tục ở với chị L. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, giao hai cháu Phan Tố T và Phan Hân N cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng sau khi ly hôn.

[2.4] Về cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn: Do chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.6] Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn là chị Mã Tố L đối với anh Phan T về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Chị Mã Tố L được ly hôn anh Phan T.

2. Về nuôi con chung: Giao hai con chung là Phan Tố T, sinh ngày 23/01/2005 và Phan Hân N, sinh ngày 19/3/2012 cho chị Mã Tố L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí:

Chị L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 007824 ngày 18/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế. Chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 21/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:24/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về