Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 21 tháng 5 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài mở phiên Tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 57/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/QĐXX-ST ngày 12 tháng 4 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 24/2019/QĐST-ST ngày 03 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trị Thị Hoa A - SN: 1993 (Có đơn xin vắng).

- Bị đơn: Ông Phan Văn B – SN: 1993 (Vắng mặt không có lý do).

Cùng trú tại: Tổ 1, khu phố PT, phường TT, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 27 tháng 12 năm 2018 và quá trình giải quyết vụ án bà Trị Thị Hoa A trình bày:

Bà và ông B tự nguyện tìm hiểu, yêu thương nhau, không ai ép buộc, tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2013, có làm thủ tục đăng ký kết theo quy định của pháp luật tại UBND xã NĐ, huyện Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, lý do mâu thuẫn là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được mọi việc trong gia đình, ông B không chú tâm làm ăn và không quan tâm đến vợ con, có nhiều lần ông B đã đánh bà A, bà A đã làm đơn ly hôn gửi tòa án nhưng sau đó ông B lại năn nỉ hứa thay đổi nên bà đã rút đơn về. Tuy nhiên khi về chung sống lại một thời gian ông B vẫn không thay đổi do đó nay bà A quyết định ly hôn với ông B.

Về con chung: Trong thời gian chung sống bà A và ông B có 01 con chung là cháu Phan Quốc C – SN: 25 tháng 12 năm 2013 Bà A yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti bản tự khai ngày 21 tháng 02 năm 2019 bị đơn ông Phan Van B trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: Ông cũng thống nhất như lời trình bày của bà A về thời gian chung sống, mâu thuẫn vợ chồng, nay bà A yêu cầu được ly hôn với ông thì ông không đồng ý do ông vẫn còn yêu thương bà A, ông mong muốn vợ chồng về đoàn tụ gia đình để cùng nhau nuôi dạy con cái.

Về con chung: Trong thời gian chung sống ông và bà A có 01 con chung là cháu Phan Quốc Thanh – SN: 25 tháng 12 năm 2013 Ông yêu cầu tự thỏa thuận việc nuôi con với bà A, không yêu cầu tòa án giải quyết và không có yêu cầu gì.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu đầy đủ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Toà án nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền của Toà án: Đây là vụ án “Tranh chấp về ly hôn” do bà Trị Thị Hoa A đứng đơn khởi kiện, bị đơn ông Phan Văn B trú tại tổ 01, khu phố Phước Tân, phường Tân Thiện, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Căn cứ khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt nguyên đơn và bị đơn; Đối với nguyên đơn bà Trị Thị Hoa A có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn ông Phan Văn B vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án đã tiến hành tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng hợp lệ nên xem như ông B từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà A, ông B theo thủ tục chung.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời trình bày của bà A, ông B và những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định bà A và ông B kết hôn năm 2013 tại Uỷ ban nhân dân xã NĐ, huyện Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân giữa bà A và ông B là hôn nhân hợp pháp.

[4]. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa bà A và ông B; Nhận thấy, cả bà A và ông B đều thừa nhận từ khi ông bà ở với nhau thì thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, tuy nhiên sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, lý do mâu thuẫn là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được mọi việc trong gia đình, vợ chồng hay cải nhau, và có một số lần xảy ra xô sát. Bà A cho rằng ông B không chú tâm làm ăn và không quan tâm đến vợ con, có nhiều lần ông B đã đánh bà A, bà A đã làm đơn ly hôn gửi tòa án nhưng sau đó ông B lại năn nỉ hứa thay đổi nên bà đã rút đơn về. Ông B cho rằng vợ chồng tuy có những mâu thuẫn nhưng ông vẫn còn yêu thương bà A nên ông không đồng ý ly hôn với bà A. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án Toà án đã hoà giải đoàn tụ cho bà A và ông B nhưng không thành. Mặt khác bà A vẫn giữ nguyên quan điểm cương quyết ly hôn với ông B. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn giữa bà A và ông B là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không được duy trì nên Toà án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà A.

[5]. Về con chung: bà A và ông B có 01 con chung là cháu Phan Quốc C – SN: 25 tháng 12 năm 2013. Bà A yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu Thanh còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ, mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án ông B không yêu cầu tòa án giải quyết về việc nuôi con tuy nhiên bà Ac vẫn giữ nguyên yêu cầu được nuôi con và ông Thanh cũng không có ý kiến yêu cầu gì. Do đó, để nhằm ổn định cuộc sống của cháu Thanh cần giao cháu cho bà A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông B không phải cấp dưỡng nuôi con.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[7]. Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà Trị Thị Hoa A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 35, 39, 227, 228, 147, 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

n cứ vào các Điều 09, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ cào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH1 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trị Thị Hoa A về việc ”tranh chấp ly hôn”

2. Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trị Thị Hoa A được ly hôn với ông Phan Văn B (Bà A và ông B kết hôn ngày 05 tháng 6 năm 2014 theo giấy chứng nhận kết hôn số 20/2014 Uỷ ban nhân dân xã NĐ, huyện Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi).

Về con chung: Giao con chung là cháu Phan Quốc C – SN: 25 tháng 12 năm 2013 cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng. Ông B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.Vì lợi ích mọi mặt của con chưa thành niên, các bên đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con nếu có căn cứ cho rằng mình hoặc bên kia không đáp ứng được quyền lợi cho con.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Trị Thị Hoa A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000894 ngày 18 tháng 02năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Xoài; Bà A đã nộp đủ án phí.

4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:24/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về