Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 09 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự

- Nguyên đơn: Chị NMT; địa chỉ Số 110/40/72 A, phường B, quận C, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh DHM; ĐKNKTT: Số 7 T82, phường D, quận E, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án phạt tù tại Đội 3, Phân trại 3, Trại giam F, huyện G, tỉnh Vĩnh Phúc; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/02/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị NMT trình bày:

Chị NMT và anh DHM kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D, quận E, thành phố Hải Phòng vào năm 2012. Quá trình chung sống vợ chồng giữa hai bên có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai bên có nhiều bất đồng về quan điểm, về cách sống. Năm 2013, anh DHM vi phạm pháp luật, bị Tòa án xử phạt 13 năm tù và hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam F, huyện G, tỉnh Vĩnh Phúc. Nay, chị NMT cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không còn nên yêu cầu Toà án giải quyết được ly hôn với anh DHM theo quy định của pháp luật.

Về con chung Có 01 con là H, sinh ngày 30 tháng 5 năm 2012 hiện đang sống cùng chị NMT. Ly hôn, chị NMT có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con cho đến khi con thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi con, hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung Chị NMT không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti Bản tự khai đề ngày 16/5/2019, có xác nhận của Trại giam F, bị đơn anh DHM trình bày:

Anh DHM và chị NMT kết hôn do tự nguyện, có đăng ký kết hôn như chị NMT trình bày. Quá trình vợ chồng chung sống giữa hai bên không có mâu thuẫn gì nhưng từ khi anh DHM đi chấp hành án phạt tù, chị NMT ít khi thăm gặp nên tình cảm vợ chồng không còn. Nay chị NMT yêu cầu giải quyết ly hôn, anh DHM xác nhận tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn.

Về con chung Có 01 con là H, sinh ngày 30 tháng 5 năm 2012. Ly hôn, anh DHM đồng ý để chị NMT nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi con, hai bên tự thỏa thuận thực hiện, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau Thẩm phán đã xác định đúng về thẩm quyền giải quyết vụ án; về quan hệ pháp luật tranh chấp; về tư cách tham gia tố tụng; về việc thu thập chứng cứ; về thời hạn gửi hồ sơ cho Viện Kiểm sát; việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự tại phiên tòa đã được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ban Thường vụ Quốc hội, xử Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Cho chị NMT ly hôn với anh DHM.

Về con chung: Giao con H cho chị NMT trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên hoặc khi có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật; việc cấp dưỡng nuôi con, chị NMT không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết. Về tài sản chung: Chị NMT không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Chị NMT phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định

[1] Về thủ tục tố tụng Bị đơn, anh DHM vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị NMT và anh DHM kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường D, quận E, thành phố Hải Phòng ngày 18/4/2012 nên quan hệ hôn nhân giữa chị NMT và anh DHM là hợp pháp.

[3] Về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ do đương sự giao nộp và Tòa án đã thu thập trong quá trình giải quyết vụ án đã được xem xét và tranh tụng công khai tại phiên tòa, thấy rằng: Quá trình chung sống giữa chị NMT và anh DHM có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai bên có bất đồng về quan điểm, về cách sống. Năm 2013, anh DHM vi phạm pháp luật bị Tòa án xử phạt 13 năm tù và hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam F, huyện G, tỉnh Vĩnh Phúc; chị NMT ít khi thăm gặp nên giữa vợ chồng không có sự yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Nay chị NMT yêu cầu giải quyết ly hôn, anh DHM đồng ý ly hôn với chị NMT theo quy định của pháp luật. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị NMT và anh DHM đã lâm vào tình trạng tr m trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc chị NMT yêu cầu ly hôn với anh DHM là có căn cứ, phù hợp với thực tế và phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận yêu cầu của chị NMT. Cho chị NMT ly hôn với anh DHM.

[4] Về con chung Chị NMT và anh DHM có 01 con là H, sinh ngày 30 tháng 5 năm 2012. Ly hôn, chị NMT có nguyện vọng được nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên. Tại phiên tòa, chị NMT trình bày: Hiện tại Chị làm nghề lao động tự do, thu nhập ổn định khoảng 10.000.000 đồng/tháng và có nơi ở ổn định nên có khả năng nuôi dưỡng con; anh DHM đồng ý để chị NMT nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, việc giao con chưa thành niên cho bố hoặc mẹ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau khi ly hôn phải bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con; cháu H đang sống cùng chị NMT và có nguyện vọng được ở với mẹ. Do vậy, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao con H cho chị NMT nuôi dưỡng là phù hợp điều kiện thực tế, phù hợp nguyện vọng của con và phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Về việc cấp dưỡng nuôi con, các bên tự thỏa thuận thực hiện không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị NMT và anh DHM không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí Chị NMT phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 326/2016/ BTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân Cho chị NMT ly hôn anh DHM.

2. Về con chung Giao con H, sinh ngày 30 tháng 5 năm 2012 cho chị NMT trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngưi không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí Chị NMT phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008129 ngày 30 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Chị NMT đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:24/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về