Bản án 24/2019/DS-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp khoản đóng góp tiền thuê đất trong hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 24/2019/DS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP KHOẢN ĐÓNG GÓP TIỀN THUÊ ĐẤT TRONG HỢP ĐỒNG GIAO NHẬN ĐẤT SỬ DỤNG VÀO MỤC ĐÍCH SẢN XUẤT MÍA CÂY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 56/2019/TLST-DS Ngày 18 tháng 04 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2019/QĐST- DS ngày 22 tháng 10 năm 2019 và quyết định tạm ngừng phiên tòa số 04/2019/QĐST-DS ngày 12 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: ông Trần Xuân K, sinh năm 1953.

Địa chỉ: ấp 7, xã P, huyện Đ, tỉnh Đ.

*Bị đơn: Công ty cổ phần mía đường L N.

Đa chỉ: Km 35, ấp 4, QL 20, xã L, huyện Đ, tỉnh Đ.

Người đại diện theo pháp luật: ông Lê Văn Đ – Chủ tịch hội đồng quản trị Đại diện theo ủy quyền: bà Lê Thị Đ (văn bản ủy quyền số 115/GUD/MĐLN ngày 21/3/2019).

*Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Đinh Thị T, sinh năm 1962.

Đa chỉ: ấp 7, xã Phú Ngọc, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Xuân K (văn bản ủy quyền Ngày 22/10/2019).

(ông K, bà Đông có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* o đơn n bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn; đại di n người có quyền lợ ng ĩa vụ liên quan ông K trình bày:

Ông yêu cầu công ty cổ phần mía đường L N (công ty) trả lại số tiền thu vượt tiền thuê đất, tiền lãi suất, lãi phạt từ năm 2012 đến năm 2017 cụ thể như sau:

1. Tiền thuê đất do công ty thu vượt:

Theo điều 2 hợp đồng thuê đất số 111/HĐTĐ ngày 25/11/2015 của UBND tỉnh Đồng Nai với công ty thì giá thuê đất từ ngày 01/01/2011 đến ngày 31/12/2015 là 1.125.000đ/ha/năm. Nhưng từ năm 2012 đến năm 2015 công ty thu 1.500.000đ/ha/năm. Như vậy, công ty thu vượt mức so với hợp đồng số 111 là 375.000đ/ha/năm.

Căn cứ thông báo số 1179/TB-CT ngày 11/10/2016 và thông báo 1192/Tb- CT ngày 10/10/2017 của Cục thuế Đồng Nai thì bình quân hàng năm cục thuế Đồng Nai thu 1.211.600đ/ha/năm nhưng công ty đã thu của ông là 2.000.000đ/ha/năm. Như vậy công ty thu vượt của ông là 788.400đ/ha/năm.

2. Khi ký hợp đồng 111/HĐTĐ ngày 25/11/2015 công ty áp dụng không đúng quyết định 2093/QĐ-TTg ngày 23/11/2011 và 1851/QĐ-TTg ngày 14/10/2013 của Thủ tướng chính phủ về việc giảm tiền thuê đất 50% làm thệt hại đến lợi ích hợp pháp của ông, cụ thể là:

Căn cứ vào quyết định 2093/QĐ-TTg ngày 23/11/2011 và 1851/QĐ-TTg ngày 14/10/2013 của Thủ tướng chính phủ, ông Bảo cho rằng tiền thuê đất được giảm 50%, giảm tiếp tiền thuê đất trong năm 2011 và 2012 bằng 02 lần năm 2010 tức là năm 2010 là 280.000đ/ha/năm x 2 = 560.000đ/ha/năm.

Trong khi đó từ năm 2011- 2015 công ty thu 1.500.000đ/ha/năm, từ năm 2016-2017 công ty thu 2.000.000đ/ha/năm của ông. công ty thu vượt số tiền 1.500.000đ - 560.000đ = 940.000đ/ha/năm.

Về nội dung này tại phiên tòa ngày 12/11/2019 ông K xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu giảm 50% với số tiền 12.008.012đ (mười hai triệu không trăm linh tám Nn không trăm mười hai đồng).

3. Tiền lãi suất trên gía trị tiền thuê đất do công ty thu vượt:

Theo điều 5 khoản 5.5 của hợp đồng đầu tư tiêu thụ sản phẩm mà công ty áp dụng để thanh toán tiền lãi suất qua các năm cho tới ngày hoàn trả và T lãi suất quá hạn. “nếu không trả đúng hạn thì lãi suất quá hạn T bằng 150% lãi suất khi đầu tư” và căn cứ bảng kê thanh toán tiền mía lãi suất đầu tư công ty thu của ông qua các năm từ vụ mía 2012-2013 đến vụ mía 2016-2017 lần lượt là 14,8%; 13,1%; 11,85; 6,3%; 6,3%;

4. Về diện tích và vị trí đất giữa ông và công ty đã thống nhất với nhau và xác định như sau: Từ năm 2011 đến năm 2013 diện tích là: 46.700m2, Từ năm 2014, 2015 diện tích là: 51.806m2; từ năm 2016, 2017 là 51.734m2; vị trí đất năm 2016, 2017 là: 4.569m2 vị trí 3, 47.165m2 vị trí 4.

5. Về hợp đồng đầu tư tiêu thụ sản phẩm số N22151507/HĐĐT/MĐLN ngày 01/12/2015 giữa ông và công ty ký và Hợp đồng giao nhận đất sản xuất nông nghiệp để tổ chức sản xuất mía cây số N2LD 1507/2011/HĐGKĐ-NL Ngày 01/8/2011 ông không tranh chấp, ông chỉ căn cứ hợp đồng đầu tư tiêu thụ sản phẩm để yêu cầu T tiền lãi. Nội dung ông tranh chấp với công ty là tiền thuê đất thu vượt theo quy định của nhà nước.

6. Hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây số N2LD 1507/2011/HĐGKĐ-NL ngày 01/8/2011 công ty ký hợp đồng với ông và vợ ông bà Đinh Thị T. Tiền đầu tư và tiền nộp tiền thuê đất hàng năm là tài sản chung của hai vợ chồng ông. Về nội dung vụ án ý kiến của bà T thống nhất với với ý kiến của ông K.

7. Tổng số tiền thuê đất công ty thu vượt và tiền lãi ông yêu cầu công ty thanh toán được T như sau: sau khi xác định được vị trí đất và diện tích đất từng năm ông yêu cầu công ty thanh toán số tiền thu vượt từ năm 2012 đến năm 2017 là 18.823.150đ, tiền lãi là 1.542.162đ, tiền lãi phạt là 2.313.250đ. Tổng cộng 22.678.562đ.

8. Đối với yêu cầu phản tố của công ty cổ phần mía đường L N yêu cầu ông và bà T thanh toán tiền thuê đất năm 2011 là 4.155.030đ ông không đồng ý.

* Theo bản khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đại di n theo ủy quyền bị đơn bà Đ trình bày.

Ngày 07/12/1979, UBND tỉnh Đồng Nai có Quyết định số 718/QĐ/UBT V/v Phê duyệt diện tích và ranh giới cho Nông trường quốc doanh Phú Ngọc do Bộ Lương thực và Thực phẩm quản lý. Diện tích đất đai thuộc Nông trường quốc doanh Phú Ngọc giao cho Bộ Lương thực và Thực phẩm quản lý, khai hoang xây dựng Nông trường phát triển vùng chuyên canh mía.

Ngày 04/04/1984, UBND tỉnh Đồng Nai có Quyết định số 07/QĐ/UBT V/v Thành lập Xí nghiệp Liên hiệp Công nông nghiệp L N.

Ngày 30/11/1984, UBND tỉnh Đồng Nai có Quyết định số 2043/QĐ/UBT V/v Quy định phạm vi ranh giới cho Nông trường mía Cao Cang thuộc Bộ Lương thực và Thực phẩm quản lý.

Ngày 14/11/2007, UBND tỉnh Đồng Nai có Quyết định số 3960/QĐ-UBND V/v Công nhận kết quả rà soát hiện trạng sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công ty cổ phần mía đường L N (công ty) tại các xã Phú Ngọc, Gia Canh huyện Định Quán; Xuân Bắc, Suối Cao huyện Xuân Lộc.

Năm 2015, Căn cứ Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phụ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Căn cứ Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên Môi trường quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; Căn cứ Quyết định số 3960/QĐ/UBND Ngày 14/11/2007 của UBND tỉnh Đồng Nai về việc công nhận kết quả rà soát hiện trạng sử dụng đất cho công ty tại huyện Định Quán, huyện Xuân Lộc. UBND tỉnh Đồng Nai ký hợp đồng thuê đất cho công ty cổ phần mía đường L N, tổng diện tích 32.396.386 m2, thời hạn thuê đất đến 15/10/2043, mục đích sử dụng đất thuê để sản xuất cây nông nghiệp. Theo đó, giá tiền thuê đất từ ngày 01/01/2011 đến 31/12/2015 là 112,5 đồng/m2 thuc vị trí 3 tại xã Gia Canh, Phú Ngọc huyện Định Quán.

Đi với các nội dung theo đơn kiện liên quan đến việc tiền thuê đất của ông Trần Xuân K, công ty không đồng ý với các nội dung khởi kiện. Vì, theo Hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây số N2LD 1507/2011/HĐGKĐ-NL ngày 01/8/2011 giữa công ty và ông Trần Xuân K. công ty có ý kiến cụ thể như sau:

Về mức thu: Số tiền thuê đất công ty thu của các hộ nhận khoán, công ty thu theo thông báo mức thu tiền thuê đất tạm T của Cục thuế tỉnh Đồng Nai để tạm thu tiền thuê đất của các hộ nhận khoán. Khi Cục thuế tỉnh Đồng Nai xác định mức thu tiền thuê đất cụ thể theo quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai để T thuế sử dụng đất và quyết toán tiền thuê đất với Công ty, Công ty sẽ quyết toán lại với các hộ nhận khoán và trả lại phần chênh lệch nếu có.

Từ những căn cứ trên, công ty bắt đầu thu tiền thuê đất của ông Trần Xuân K từ ngày 01/01/2011 đến 31/12/2017. Cụ thể:

- Năm 2011: Diện tích đóng tiền thuê đất là 46.700 m2 , giá tiền thuê đất là 112,5 đồng/m2. Tổng số tiền thuê đất ông Trần Xuân K phải đóng là 5.253.750 đồng, công ty tạm thu tiền thuê đất (từ tiền thu hoạch mía) là 1.098.720 đồng, ông K còn nợ công ty tiền thuê đất trong năm 2011 là 4.155.030 đồng.

- Năm 2012: Diện tích đóng tiền thuê đất là 46.700 m2 , giá tiền thuê đất là 112,5 đồng/m2. Tổng số tiền thuê đất ông Trần Xuân K phải đóng là 5.253.750 đồng, công ty tạm thu tiền thuê đất (từ tiền thu hoạch mía) là 7.770.000đồng, công ty còn nợ tiền thuê đất trong năm 2012 là 2.516.250 đồng.

- Năm 2013: Diện tích đóng tiền thuê đất là 46.700 m2 , giá tiền thuê đất là 112,5 đồng/m2. Tổng số tiền thuê đất ông Trần Xuân K phải đóng là 5.253.750 đồng, công ty tạm thu tiền thuê đất (từ tiền thu hoạch mía) là 7.770.900đồng, công ty còn nợ tiền thuê đất trong năm 2013 là 2.516.150 đồng.

- Năm 2014: Diện tích đóng tiền thuê đất là 51.806 m2 , giá tiền thuê đất là 112,5 đồng/m2. Tổng số tiền thuê đất ông Trần Xuân K phải đóng là 5.828.175 đồng, công ty tạm thu tiền thuê đất (từ tiền thu hoạch mía) là 7.770.900đồng, công ty còn nợ tiền thuê đất trong năm 2014 là 1.942.725 đồng.

- Năm 2015: Diện tích đóng tiền thuê đất là 51.806 m2 , giá tiền thuê đất là 112,5 đồng/m2. Tổng số tiền thuê đất ông Trần Xuân K phải đóng là 5.828.175 đồng, công ty tạm thu tiền thuê đất (từ tiền thu hoạch mía) là 7.770.900đồng, công ty còn nợ tiền thuê đất trong năm 2015 là 1.942.725 đồng.

Đến nay, công ty còn nợ ông Trần Xuân K số tiền thuê đất thu vượt từ Ngày 01/01/2011 đến ngày 31/12/2015 là 4.763.820 đồng.

Ngày 01/11/2018, công ty có Thông báo số 782/TB/MĐLN-NLQLĐĐ V/v Đối chiếu tiền thuê đất từ năm 2011 đến năm 2015 đối với các hộ nhận khoán theo hợp đồng giao khoán đất đã ký với Công ty. Theo đó, công ty đã đối chiếu và trả lại tiền thu vượt cho các hộ dân tại 03 Nông trường. Ông Trần Xuân K không đồng ý ký biên bản đối chiếu tiền thuê đất từ năm 2011 đến năm 2015 đã được Công ty tổng hợp.

Ngày 07/01/2019, công ty nhận được Thông báo số 9667/TB-CT Ngày 21/12/2018 của Cục Thuế Đồng Nai V/v Đơn giá thuê đất từ ngày 01/01/2016, áp dụng đơn giá thuê đất cho diện tích đất sản xuất nông nghiệp của Công ty CP Mía đường L N. Đơn giá thuê đất sản xuất nông nghiệp tại huyện Định Quán cụ thể:

Đất vị trí 2 là: 40.000 đồng/m2 x 0,5%/năm = 200 đồng/m2/năm. Đất vị trí 3 là: 30.000 đồng/m2 x 0,5%/năm = 150 đồng/m2/năm. Đất vị trí 4 là: 20.000 đồng/m2 x 0,5%/năm = 100 đồng/m2/năm.

Tuy nhiên, đến nay Cục Thuế Đồng Nai chưa áp giá vị trí đất để thanh quyết toán với công ty (Từ ngày 01/01/2016 đến nay). Sau khi Cục thuế tỉnh Đồng Nai có thông báo quyết toán cụ thể, Công ty sẽ tiến hành tổng hợp số liệu đối chiếu để quyết toán, thu thêm hoặc trả lại tiền chênh lệch thừa/thiếu cho người nhận khoán theo hợp đồng giao nhận đất sản xuất nông nghiệp mà hai bên đã ký kết.

Ngày 01/10/2019 văn phòng đăng ký đất đai sở Tài nguyên và Môi trường Đồng Nai có công văn số 7051/VPĐK-PĐKTK xác định vị trí đất của ông K, đối chiếu Thông báo số 9667/TB-CT ngày 21/12/2018 của Cục Thuế Đồng Nai. Như vậy:

Năm 2016: Diện tích đóng tiền thuê đất là 51.734m2. Tổng số tiền thuê đất năm 2016 công ty tạm thu của ông Trần Xuân K (từ tiền thu hoạch mía) là 10.361.200 đồng. công ty còn nợ tiền thuê đất trong năm 2016 là 4.959.350 đồng Năm 2017: Diện tích đóng tiền thuê đất là 51.734m2. Tổng số tiền thuê đất năm 2017 công ty tạm thu của ông Trần Xuân K (từ tiền thu hoạch mía) là 10.346.800 đồng. công ty còn nợ tiền thuê đất trong năm 2017 là 4.944.950 đồng.

Như vậy đối với yêu cầu khởi kiện của ông K yêu cầu công ty thanh toán số tiền thu vượt từ năm 2012 đến năm 2017 tổng số tiền là 18.823.150đ công ty đồng ý thanh toán. Đối với yêu cầu thanh toán tiền lãi là 1.542.162đ và tiền lãi phạt là 2.313.250đ, tổng cộng là 3.855.412đ công ty không đồng ý thanh toán.

Yêu cầu phản tố:

Ngày 14/6/2019 công ty có đơn phản tố yêu cầu ông Trần Xuân K và bà Đinh Thị T trả cho công ty số tiền ông bà còn nợ chưa đóng góp là tiền thuê đất năm 2011 của diện tích đất là 46.700 m2, với số tiền là 4.155.030 đồng, cụ thể như sau:

Năm 2011, công ty và ông Trần Xuân K - bà Đinh Thị T ký kết Hợp đồng giao, nhận đất sử dụng vào mục đích sản mía cây số N2LD 1507/2011/HĐGKĐ- NL ngày 01/8/2011 với diện tích đất Ông K và bà T nhận khoán của công ty là 46.700 m2 thuc thửa đất số 36, 61, 62, 55, 43, 56 tọa lạc tại Ấp 7, xã Phú Ngọc, H.Định Quán, Đồng Nai nằm trong tổng diện tích đất 32.396.386 m2 UBND tỉnh Đồng Nai cấp quyền sử dụng đất cho công ty.

Căn cứ Nghị định 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ V/v thu tiền thuê đất, thuê mặt nước; Nghị định 121/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ V/v thu tiền thuê đất, thuê mặt nước để thu tiền thuê đất của các hộ nhận khoán; Nghị định 46/2014/NĐ-CP Ngày 15/5/2014 của Chính phủ về việc thu tiền thuê đất, thuê mặt nước để thu các khoản đóng góp là tiền thuê đất của các hộ nhận khoán giai đoạn từ 01/7/2014 đến nay; Hợp đồng thuê đất số 111/HĐTĐ ngày 25/11/2015 của UBND tỉnh Đồng Nai ký cho Công ty CP Mía đường L N, tổng diện tích 32.396.386 m2 , thời hạn thuê đất đến 15/10/2043, mục đích sử dụng đất thuê để sản xuất cây nông nghiệp và áp giá tiền thuê đất từ ngày 01/7/2004 đến 31/12/2015.

Từ những căn cứ trên, công ty bắt đầu thu các khoản đóng góp giao khoán là tiền thuê đất của ông Trần Xuân K từ ngày 01/01/2011 đến 31/12/2017 để nộp cho Cục thuế tỉnh Đồng Nai.

Năm 2011: Diện tích đóng tiền thuê đất là 46.700 m2, giá tiền thuê đất là 112,5 đồng/m2. Tổng số tiền thuê đất ông Trần Xuân K phải đóng là 5.253.750 đồng, công ty tạm thu tiền thuê đất (từ tiền thu hoạch mía) là 1.098.720 đồng, ông K, bà T còn nợ công ty tiền thuê đất trong năm 2011 là 4.155.030 đồng

*Ý kiến của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu tiền lãi và lãi phạt, đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu giảm 50% tiền thu vượt; chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

Về án phí các bên đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thẩm quyền: bị đơn công ty cổ phần mía đường L N có trụ sở tại Km 35, ấp 4, QL 20, xã L N, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai nên đơn khởi kiện của ông K thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Định Quán.

[2]Về quan hệ pháp luật:

Căn cứ hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây số N2LD 1507/2011/HĐGKĐ-NL ngày 01/8/2011 giữa công ty cổ phần mía đường L N với ông Trần Xuân K và bà Đinh Thị T, tại mục 1.2 phần 1 Điều 3 hợp đồng hai bên thỏa thuận nghĩa vụ và quyền của bên B (ông K, bà T) là thực hiện đầy đủ nghĩa vụ các khoản đóng góp trong đó có tiền thuê đất hàng năm.

Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp khoản đóng góp tiền thuê đất trong hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây”

[3]Về tư cách đương sự:

Nguyên đơn: ông Trần Xuân K; Bị đơn là công ty cổ phần mía đường L N.

Đi với bà Đinh Thị T thì căn cứ Hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây số N2LD 1507/2011/HĐGKĐ-NL ngày 01/8/2011 công ty cổ phần mía đường L N ký hợp đồng với ông Trần Xuân K và bà Đinh Thị T. Bà T là vợ của ông K, công ty cổ phần mía đường L N thu tiền thuê hàng năm là tiền chung của vợ chồng ông K và bà T. Vì vậy, Tòa án xác định và đưa bà Đinh Thị T tham gia vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đi với Ủy ban nhân tỉnh Đồng Nai là cơ quan cho thuê đất, Cục thuế Đồng Nai là cơ quan xác định và thu tiền thuê đất. Việc tranh chấp khoản đóng góp tiền thuê đất trong hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây giữa ông K và công ty cổ phần mía đường L N không liên quan Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và Cục thuế Đồng Nai nên Tòa án không đưa Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và Cục thuế Đồng Nai tham gia vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[4]Về nội dung vụ án:

- Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu công ty cổ phần mía đường L N thanh toán số tiền thuê đất vượt:

Gia UBND tỉnh Đồng Nai với công ty có ký hợp đồng thuê đất số 111/HĐTĐ ngày 25/11/2015, với nội dung UBND tỉnh Đồng Nai cho công ty cổ phần mía đường L N thuê diện tích đất 32.396.386m2 tại các xã Gia Canh, Phú Ngọc huyện Định Quán; xã Xuân Bắc, Suối Cao huyện Xuân Lộc. Thời gian thuê đất kể từ ngày 01/7/2004 đến ngày 15/10/2043. Việc UBND tỉnh Đồng Nai cho công ty thuê đất thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 73 Luật đất đai năm 2003 (Doanh nghiệp nhà nước đã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 phải chuyển sang thuê đất hoặc được giao đất có thu tiền sử dụng đất).

Công ty có ký với vợ chồng ông Trần Xuân K và bà Đinh Thị T hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây số N2LD 1507/2011/HĐGKĐ-NL ngày 01/8/2011, với nội dung công ty giao đất cho vợ chồng ông K, bà T để sản xuất mía cây. Hợp đồng này giữa hai bên được xác định là việc giao khoán đất nông nghiệp, theo quy định tại Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ quy định về việc giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản trong các nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh. Theo quy định của Nghị định 135/2005/NĐ-CP thì công ty cổ phần mía đường L N có quyền giao khoán đất, vợ chồng ông Kiếu, bà T có quyền nhận khoán. Hợp đồng giao khoán được giao kết giữa hai bên là đúng pháp luật; Hai bên đương sự chỉ tranh chấp một phần của hợp đồng về tiền thuê đất, các phần còn lại của hợp đồng hai bên không tranh chấp.

Tại mục 1.2 Điều 3 của Hợp đồng hai bên có thỏa thuận bên B (ông K, bà T) có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các khoản đóng góp, trong đó có tiền thuê đất hàng năm theo quy định của nhà nước. Nội dung thu tiền thuê đất sản xuất nông nghiệp được bên giao khoán là công ty cổ phần mía đường L N và bên nhận khoán là các hộ dân thỏa thuận trên nguyên tắc tự nguyện thể hiện tại hợp đồng theo quy định tại Điều 4, Điều 9 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP. Nội dung thỏa thuận là không trái pháp luật. Như vậy theo hợp đồng thì công ty có quyền thu của vợ chồng ông K, bà T khoản đóng góp tiền thuê đất hàng năm theo quy định của Nhà nước.

Hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây số N2LD 1507/2011/HĐGKĐ-NL ngày 01/8/2011có thời hạn 03 năm (một chu kỳ mía); như vậy từ thời điểm cuối năm 2014 thì thời hạn hợp đồng đã hết. Thời hạn hợp đồng đã hết hai bên chưa ký lại hợp đồng mới, tuy nhiên trên thực tế hai bên vẫn tiếp tục thực hiện việc giao nhận khoán với nhau, song song với việc giao nhận khoán này giữa công ty cổ phần mía đường L N với vợ chồng ông K, bà T còn ký hợp đồng đầu tư tiêu thụ sản phẩm. Do đó xác định hợp đồng giao khoán giữa hai bên vẫn được tiếp tục thực hiện.

Theo sự thống nhất giữa hai bên thì vị trí đất và giá tiền thuê cụ thể như sau:

+ Từ năm 2012 đến năm 2013: Diện tích 46.700m2 đơn giá thuê 112,5 đồng/m2/năm (Giá tiền thuê đất theo hợp đồng thuê đất số 111/HĐTĐ Ngày 25/11/2015 giữa UBND tỉnh Đồng Nai với công ty cổ phần mía đường L N) số tiền thuê đất vợ chồng ông K, bà T phải nộp là 10.507.500đ, công ty đã thu từ tiền mía là 15.541.800đ, công ty thu vượt của ông K, bà T là 5.33.400đ.

+ Từ năm 2014 đến năm 2015: Diện tích 51.806m2 đơn giá thuê 112,5 đồng/m2/năm (Giá tiền thuê đất theo hợp đồng thuê đất số 111/HĐTĐ Ngày 25/11/2015 giữa UBND tỉnh Đồng Nai với công ty cổ phần mía đường L N) số tiền thuê đất vợ chồng ông K, bà T phải nộp là 11.656.350đ, công ty đã thu từ tiền mía là 15.541.800đ, công ty thu vượt của ông K, bà T là 3.885.450đ

+ Từ năm 2016, 2017: Diện tích là 51.734m2; vị trí đất năm 2016, 2017 là: 4.569m2 vị trí 3, 47.165m2 vị trí 4 (Giá tiền thuê đất theo Thông báo về đơn giá thuê đất số 9667/TB-CT ngày 21/12/2018 của Cục thuế tỉnh Đồng Nai). Số tiền thuê đất vợ chồng ông K, bà T phải nộp là 10.803.700đ, công ty đã thu từ tiền mía là 20.708.000đ, công ty thu vượt của ông K, bà T là 9.904.300đ.

Ông K khởi kiện yêu cầu công ty thanh toán số tiền thu vượt từ năm 2012 đến năm 2017 tổng số tiền là 18.823.150đ, đại diện cho công ty đồng ý thanh toán số tiền thu vượt này cho ông K, bà T.

Như vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K đối với số tiền thuê đất công ty cổ phần mía đường L N thu vượt từ năm 2012 đến năm 2017 buộc công ty cổ phần mía đường L N phải thanh toán cho ông K, bà T số tiền 18.823.150đ (mười tám triệu tám trăm hai mươi ba Nn một trăm năm mươi đồng).

Đi với yêu cầu giảm 50% tiền thuê đất theo quyết định 2093/QĐ-TTg ngày 23/11/2011 và 1851/QĐ-TTg ngày 14/10/2013 của Thủ tướng chính phủ. Tại phiên tòa ngày 12/11/2019 ông K xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu này với số tiền 12.008.012đ (mười hai triệu không trăm linh tám Nn không trăm mười hai đồng). Nên Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông K

- Về yêu cầu T lãi, lãi phạt của nguyên đơn:

Số tiền thuê đất công ty thu của các hộ nhận khoán, công ty thu theo thông báo mức thu tiền thuê đất tạm T của Cục thuế tỉnh Đồng Nai (từ năm 2011 đến năm 2015 tạm thu 1.500.000đ/ha/năm, từ năm 2016 đến năm 2018 tạm thu 2.000.000đ/ha/năm) để tạm thu tiền thuê đất của các hộ nhận khoán. Khi Cục thuế tỉnh Đồng Nai xác định mức thu tiền thuê đất cụ thể theo quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai để T thuế sử dụng đất và quyết toán tiền thuê đất với công ty, công ty sẽ quyết toán lại với các hộ nhận khoán và trả lại phần chênh lệch nếu có. Các tài liệu chứng cứ do phía bị đơn giao nộp đều thể hiện hàng năm Cục thuế tỉnh Đồng Nai ban hành Thông báo nộp tiền thuê đất tạm T cho công ty (có thời hạn cụ thể), sau đó công ty đã nộp tiền vào ngân sách nhà nước theo thông báo của Cục thuế, sau khi Cục thuế quyết toán lại với công ty thì không T lãi đối với số tiền mà công ty cổ phần mía đường L N nộp dư, nên khi Công ty quyết toán lại với các hộ dân cũng không có cơ sở T lãi đối với số tiền thu vượt, vì toàn bộ số tiền công ty tạm thu công ty đã nộp vào ngân sách nhà nước.

Việc tạm thu của công ty cũng dựa trên việc tạm thu của Cục thuế tỉnh Đồng Nai. Công ty tạm thu tiền thuê đất của các hộ dân nhận khoán được công ty cổ phần mía đường L N thực hiện từ năm 2012 đến năm 2015 với mức tạm thu là 1.500.000đ/ha/năm, từ năm 2016 đến năm 2017 tạm thu 2.000.000đ/ha/năm. Lý do công ty phải tạm thu là do công ty chưa xác định được mức thu tiền thuê đất cụ thể theo quy định của Nhà nước. Mãi tới Ngày 25/11/2015 giữa UBND tỉnh Đồng Nai với công ty mới ký hợp đồng thuê đất số 111/HĐTĐ ngày 25/11/2015, trong đó có thể hiện việc công ty có nghĩa vụ đóng tiền thuê đất kể từ ngày 01/7/2004 tới ngày 31/102/2015 theo đơn giá tại Điều 2 của Hợp đồng. Như vậy kể từ ngày 25/11/2015 UBND tỉnh Đồng Nai mới xác định cụ thể mức thu tiền thuê đất, dẫn một chiếu trường hợp cụ thể tại hợp đồng 111/HĐTĐ có mức thu như sau: “11 2 đồng/m2/năm đối với di n tích 28.314.348,7m2 đt thuộc vị trí 3 tại xã Gia Canh, xã Phú Ngọc huy n Định Quán”. Sau khi có hợp đồng thuê đất số 111/HĐTĐ ngày 25/11/2015, Cục thuế tỉnh Đồng Nai ban hành Thông báo số 79/TB.CT.QLCKTTĐ ngày 17/02/2016 về việc nộp tiền thuê đất đối với công ty. Như vậy kể từ thời điểm ngày 17/02/2016 thì công ty mới xác định được mức thu cụ thể đối với diện tích các hộ dân nhận khoán, Theo Hợp đồng 111/HĐTĐ thì hết thời hạn 31/12/2015 giá tiền thuê đất được T lại theo quy định của Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014. Ngày 21/12/2018 Cục thuế tỉnh Đồng Nai ban hành Thông báo số 9667/TB-CT về đơn giá thuê đất từ ngày 01/01/2016, ngày 11/9/2019 Cục thuế tỉnh Đồng Nai ban hành Thông báo nộp tiền thuê đất số 730/TB.CT.QLCKTTĐ đối với công ty. Tại Văn bản số 7051/VPĐK-PĐKTK ngày 01/10/2019 Văn Phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai cung cấp cho Tòa án vị trí đất cụ thể trên địa bàn huyện Định Quán, theo đó trong đó có đất gia đình ông K. ngày 11/10/2019, giữa UBND tỉnh Đồng Nai với Công ty CP mía đường L N ký Phụ lục hợp đồng thuê đất số 111/PLHĐTĐ-1, trong đó có điều chỉnh đơn giá tiền thuê đất từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2020. Như vậy kể từ thời điểm ngày 11/10/2019 thì công ty mới xác định được mức thu cụ thể từ ngày 01/01/2016 đối với diện tích các hộ dân nhận khoán.

Mặt khác thu nộp khoản đóng góp trong đó có khoản tiền thuê đất giữa công ty cổ phần mía đường L N với các hộ dân trong hợp đồng giao khoán không phải là một giao dịch dân sự như mua bán hàng hóa, vay tài sản… Nguyên đơn căn cứ theo điều 5 khoản 5.5 của hợp đồng đầu tư tiêu thụ sản phẩm mà công ty áp dụng khi đầu từ cho ông, ngoài ra ông K căn cứ việc ông đi vay tiền tại ngân hàng thì ngân hàng cũng T tiền lãi với ông để ông yêu cầu tiền lãi suất và lãi suất quá hạn với công ty là không có căn cứ.

Như vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu thanh toán tiền lãi và lãi phạt của ông K đối với tiền lãi là tiền lãi là 1.542.162đ và tiền lãi phạt là 2.313.250đ, tổng cộng là 3.855.412đ (ba triệu tám trăm năm mươi lăm Nn bốn trăm mười hai đồng).

- Về yêu cầu phản tố của bị đơn:

Hợp đồng giao nhận đất giữa công ty với ông K, bà T được ký kết vào năm 2011, do đó quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng giữa hai bên được thực hiện từ vụ mía năm 2011 – 2012, trong đó ông K, bà T phải đóng tiền thuê đất từ thời điểm này. Theo phía công ty trình bày năm 2011 do chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện việc thu tiền thuê đất theo quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, công ty vẫn tạm thu tiền thuế đất nông nghiệp năm 2011 theo quy định cũ (Nghị định 01/CP ngày 04/01/1995 của Chính phủ quy định về việc giao khoản đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong các doanh nghiệp nhà nước). Năm 2012 trở đi, khi có văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và Cục Thuế Đồng Nai nâng mức tạm thu tiền thuê đất lên 1.500.000 đồng/ha, công ty tiến hành tạm thu tiền đóng góp là tiền thuê đất theo thông báo tạm thu của Cục Thuế tỉnh Đồng Nai.

Năm 2016, căn cứ Hợp đồng thuê đất số 111/HĐTĐ ngày 25/11/2015 của UBND tỉnh Đồng Nai, Cục Thuế tỉnh Đồng Nai có thông báo quyết toán thuế và truy thu tiền thuê đất năm 2011 thay vì tiền thuế đất nông nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành.

Đánh giá việc tạm thu tiền thuê đất của công ty: Theo công ty cổ phần mía đường L N trình bày số tiền thuê đất công ty thu của các hộ nhận khoán, công ty thu theo thông báo mức thu tiền thuê đất tạm T của Cục thuế tỉnh Đồng Nai để tạm thu tiền thuê đất của các hộ nhận khoán. Khi Cục thuế tỉnh Đồng Nai xác định mức thu tiền thuê đất cụ thể theo quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Đồng Nai để T thuế sử dụng đất và quyết toán tiền thuê đất với Công ty, Công ty sẽ quyết toán lại với các hộ nhận khoán và trả lại phần chênh lệch nếu có.

Diện tích đóng tiền thuê đất của ông K, bà T năm 2011 là 46.700m2, giá tiền thuê đất là 112,5 đồng/m2. Tổng số tiền thuê đất ông K, bà T phải đóng là 5.253.750đ, công ty tạm thu tiền thuế đất là 1.098.720đ, ông K, bà T còn nợ công ty tiền thuê đất trong năm 2011 là 4.155.030đ Như vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu phản tố của công ty cổ phần mía đường L N đối với số tiền thuê đất năm 2011, buộc ông K, bà T phải thanh toán cho công ty cổ phần mía đường L N số tiền 4.155.030đ (bốn triệu một trăm năm mươi lăm Nn không trăm ba mươi đồng) [5]Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Yêu cầu khởi kiện của ông K đối với số tiền thuê đất công ty cổ phần mía đường L N thu vượt từ năm 2012 đến năm 2017 với số tiền 18.823.150đ được chấp nhận nên công ty cổ phần mía đường L N phải chịu án phí là: 941.157đ. Được trừ tiền tạm ứng đã nộp là 300.000đ, công ty cổ phần mía đường L N còn phải nộp tiếp số tiền 641.157đ - Yêu cầu thanh toán tiền lãi và lãi phạt của ông K đối với tiền lãi là 1.542.162đ, tiền lãi phạt là 2.313.250đ tổng cộng 3.855.412đ nên ông K, bà T phải chịu án phí với số tiền là 300.000đ.

-Yêu cầu phản tố của công ty cổ phần mía đường L N đối với số tiền thuê đất năm 2011 số tiền 4.155.030đ được chấp nhận nên ông K, bà T phải chịu án phí với số tiền là: 300.000đ Tổng cộng số tiền ông K, bà T phải nộp 600.000đ, ông K được miễn án phí theo quy định nên bà T phải nộp 300.00đ án phí dân sự sơ thẩm.

[6]Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nhận định trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 3 Điều 26; Điều 203; Điều 220; Điều 235; Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Các Điều 256, Điều 501, Điều 506 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 166, Điều 468, Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Nghị định 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ

- Điểm đ, khoản 1, Điều 12; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên Xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân K về Tranh chấp khoản đóng góp tiền thuê đất trong hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây từ năm 2012 đến năm 2017.

Buộc công ty cổ phần mía đường L N có nghĩa vụ hoàn trả cho ông Trần Xuân K và bà Đinh Thị T số tiền 18.823.150đ (mười tám triệu tám trăm hai mươi ba Nn một trăm năm mươi đồng) Không chấp nhận yêu cầu của ông Trần Xuân K về yêu cầu thanh toán tiền lãi là 1.542.162đ, tiền lãi phạt là 2.313.250đ tổng cộng 3.855.412đ (ba triệu tám trăm năm mươi lăm Nn bốn trăm mười hai đồng).

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Xuân K đối với yêu cầu giảm 50% tiền thuê đất theo Quyết định 2093/QĐ-TTg ngày 23/11/2011 và Quyết định 1851/QĐ-TTg với số tiền 12.008.012đ (mười hai triệu không trăm linh tám Nn không trăm mười hai đồng).

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của công ty cổ phần mía đường L N đối với số tiền thuê đất năm 2011. Buộc ông Trần Xuân K và bà Đinh Thị T có nghĩa vụ thanh toán cho công ty cổ phần mía đường L N số tiền 4.155.030đ (bốn triệu một trăm năm mươi lăm Nn không trăm ba mươi đồng).

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty cổ phần mía đường L N phải chịu án phí là: 941.157đ (chín trăm bốn mươi mốt Nn một trăm năm mươi bảy đồng). Được trừ tiền tạm ứng đã nộp là 300.000đ (ba trăm Nn đồng) tại biên Li thu tiền số 0002375 ngày 28/6/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Định Quán, công ty cổ phần mía đường L N còn phải nộp tiếp số tiền 641.157đ (sáu trăm bốn mươi mốt Nn một trăm năm bảy đồng) Ông K được miễn án phí theo quy định, bà T phải nộp 300.00đ (ba trăm Nn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

449
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/DS-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp khoản đóng góp tiền thuê đất trong hợp đồng giao nhận đất sử dụng vào mục đích sản xuất mía cây

Số hiệu:24/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về