TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 24/2019/DS-PT NGÀY 26/02/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 24/2019/TLPT-DS ngày 04 tháng 01 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 78/2018/DS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 10/2019/QĐXXPT-DS ngày 12 tháng 02 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Ngô Thị M, sinh năm 1956.
Địa chỉ: Số 679, Tổ 6, ấp S, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh; Có mặt.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1983;
Địa chỉ: Số 6, Tổ 5, ấp S, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh; Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1968;
Địa chỉ: Tổ 6, ấp S, xã T, huyện C, tỉnh Tây Ninh; Vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Ngô Thị M.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo nội dung án sơ thẩm:
Nguyên đơn bà Ngô Thị M trình bày:
Ngày 20/3/2016 dương lịch, bà có mua của chị V hai chân hụi do chị H làm đầu thảo như sau:
Dây hụi tháng 1.000.000 đồng, khui ngày 20/3/2016 dương lịch, bao gồm 30 phần mãn, hụi ngày 20/8/2018. Trong dây hụi này bà có chơi hai phần, chị V chơi một phần. Chị V sang hụi cho bà ngay từ tháng đầu tiên. Hai bên tính tiền theo người khui hụi kêu 360.000 đồng. Tính tiền như sau: 29 phần x 640.000 đồng = 18.560.000 đồng, trừ cò 500.000 đồng. Bà giao cho chị V số tiền là 18.060.000 đồng, có làm giấy tay không ghi ngày tháng.
Dây hụi tháng 500.000 đồng, khui ngày 20/3/2016 dương lịch, bao gồm 30 phần mãn ngày 20/8/2018. Chị V chơi một phần đã đóng được 02 tháng. Đến ngày 24/5/2016 thì chị V mới sang hụi cho chị, tính tiền theo người khui hụi tháng 5/2016 kêu 190.000 đồng. Tính tiền: Hụi chết: 02 phần x 500.000 đồng là 1.000.000đồng, hụi sống: 27 phần x 310.000 đồng là 8.370.000 đồng, Cộng 9.370.000 đồng, trừ cò 250.000 đồng còn lại 9.120.000 đồng bà giao cho chị V, có làm giấy tay ghi ngày 24/5/2016.
Tổng cộng bà giao cho chị V cả 2 chân hụi là 27.680.000 đồng (Hai mươi bảy triệu, sau trăm tám mươi nghìn đồng), chị V viết giấy tay, ghi rõ nội dung sang 2 chân hụi trên cho bà. Chị V hứa có trách nhiệm đóng hụi chết cho tới mãn hụi.
Sau khi giao nhận tiền xong bà và chị V có thoả thuận với chị H là chủ hụi, chị H đồng ý. Trong giấy tay sang hụi có chị Cao Thị Phượng và chị Ngô Thị Châu ký tên người làm chứng. Tuy nhiên do sơ suất nên bà không cho chị H chủ hụi ký vào giấy sang hụi này.
Sau khi sang hụi, tháng nào bà cũng trực tiếp tham gia khui trong 2 chân hụi của chị V, nhưng quá trình đóng hụi thì chị V trực tiếp đóng cho chị H theo hụi sống, số tiền chệnh lệch giữa hụi sống và hụi chết thì chị V đưa lại cho bà. Không có tháng nào bà đóng thay cho chị V.
Tuy nhiên đến ngày khui hụi tháng thứ 25 vào ngày 20/3/2018 dương lịch, do chị V đã bỏ đi, không có ở địa phương, chị H không cho bà kêu hụi của chị V và tuyên bố đến mãn hụi cũng không cho bà hốt tiền hụi của chị V. Từ khi chị V bỏ đi thì chị H cũng không cho bà đóng thay.cho đến tháng 8/2018 thì hụi đã mãn.
Bà xác định chị V đã đóng hụi sống cho chị H là 24 tháng trong chân hụi 1.000.000 đồng là 24.000.000 đồng; chân hụi 500.000đồng là 12.000.000 đồng (tính theo hụi mãn), tổng cộng hai chân hụi là 36.000.000 đồng. Đây là số tiền hụi của bà do chị V đã sang lại cho bà. Riêng số tiền hụi trong hai chân hụi một triệu đồng bà tham gia với chị H, bà đã hốt hụi xong, hiện nay hụi mãn, bà không tranh chấp gì.
Nay bà khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết buộc chị H phải trả lại cho bà số tiền 36.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Bà không khởi kiện đối với chị V.
Chứng cứ bà M giao nộp cho Tòa án gồm: Bản phô tô danh sách hụi 500.000 đồng và hụi 1.000.000 đồng; Một giấy tay có nội dung “sang hụi” ngày 24/5/2016.
* Bị đơn chị Nguyễn Thị Thanh H trình bày:
Bà M là vợ của ông Ba Cu và chị V vợ anh Kha có tham gia chơi nhiều chân hụi do chị làm chủ thảo, bà M và chị V là hụi viên, trong danh sách hụi ghi tên bà M là dì Ba Cu, ghi tên chị V là chị Kha. Trong đó có hai dây hụi như bà M trình bày là đúng:
Dây hụi tháng 1.000.000 đồng bà M tham gia hai phần và đã hốt xong hụi đã mãn vào ngày 20/8/2018. Chị V chơi một phần đóng được 22 tháng hụi sống. Dây hụi tháng 500.000 đồng bà M không tham gia chỉ có chị V tham gia một phần đóng được 22 tháng hụi sống. Đến tháng 02/2018 thì chị V bỏ địa phương đi, lúc này chị V còn thiếu 2 tháng trước đó chưa đóng.
Hàng tháng: phần hụi của chị V do chị V trực tiếp đóng, không có lần nào bà M đóng thay phần hụi của chị V. Đến ngày 20/3/2018 lần kêu hụi tháng 25, khi chị V bỏ địa phương đi thì bà M yêu cầu cho bà hốt phần hụi của chị V, chị không đồng ý cho bà M hốt vì hụi của ai tham gia thì chị người đó hốt hụi.Việc bà M có chung tiền mua hụi của chị V hay không chị không biết, không chứng kiến và cũng không có ký tên trong giấy sang hụi, do hai bên tự thoả thuận với nhau, không có sự đồng ý của chị.
Hiện nay chị V đã bỏ địa phương đi, không cung cấp địa chỉ mới, chị phải bỏ tiền choàng hụi cho chị V từ tháng 01/2018 đến tháng 8/2018 là 7 tháng hụi mãn, chị đã hốt hai chân hụi trên của chị V để khấu trừ vào tiền chị V thiếu tiền hụi trong hai chân này và những dây hụi khác của chị V chơi còn thiếu.
Nay bà M yêu cầu chị phải giao lại số tiền của chị V đã đóng trong hai chân hụi trên với số tiền 36.000.000 đồng, chị không đồng ý.
Việc bà M sang hụi của chị V chị không biết, chị không có ký tên vào giấy sang hụi nên bà M, chị V tự tính toán giải quyết với nhau, không liên quan đến chị.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – chị Nguyễn Thị V vắng mặt trong tất cả các lần Tòa án triệu tập làm việc nên không có lời trình bày.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 78/2018/DS-ST ngày 15-11-2018 của Tòa án nhân huyện C, tỉnh Tây Ninh tuyên xử:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 280, 281, 282, 479 Bộ luật dân sự năm 2005; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị M về việc buộc chị Nguyễn Thị Thanh H trả số tiền hụi 36.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 30-11-2018, nguyên đơn là bà Ngô Thị M có đơn kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm theo hướng buộc chị Nguyễn Thị Thanh H trả cho bà số tiền 36.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Ngô Thị M vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không cung cấp chứng cứ gì mới, hai bên không tự thỏa thuận được vấn đề giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Ngô Thị M, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của bà M trong thời hạn luật định, bà thuộc trường hợp được miễn án phí dân sự phúc thẩm là hợp lệ về hình thức.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của bà Ngô Thị M thấy rằng:
[2.1] Bà M yêu cầu chị H phải trả số tiền 36.000.000 đồng theo giấy sang hụi ngày 24/5/2016 giữa bà M với chị Nguyễn Thị V, do chị V tham gia 02 đầu hụi 1.000.000 đồng và 500.000 đồng do chị H làm chủ thảo, trong đó dây hụi 1.000.000 đồng chị V có 1/30 phần, hụi 500.000 đồng chị V có 1/30 phần đều khui ngày 30/3/2016. Đến tháng 5/2016, bà M sang 02 đầu hụi, tổng cộng 27.180.000 đồng để được nhận hụi chót của chị V, tiền đóng hụi hàng tháng chị V vẫn phải đóng. Nhưng chị V không đóng đến hụi mãn mà hụi đang hoạt động thì chị V bỏ đi nơi khác, không rõ địa chỉ. Chị H xác nhận 02 đầu hụi chị V tham gia 1.000.000 đồng và 500.000 đồng đã đóng hụi sống được 22/36 phần, hiện chị V đang còn nợ nhiều tháng hụi. Chị H phải đóng choàng cho các hụi viên khác hốt, chị không biết việc bà M sang hụi chị V nên không đồng ý trả 36.000.000 đồng cho bà M. Vì hụi giữa chị V với chị H chưa được giải quyết.
[2.2] Xét thấy, bà M cũng thừa nhận chị V tham gia hụi với chị H, hụi sống do chị V đóng, việc sang hụi giữa bà M với chị V chị H không có ký. Bà M khai chị H có biết giấy cam kết, chị H đồng ý nhưng chị H không thừa nhận, bà M cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh chị H đồng ý cho sang hụi. Nên theo nguyên tắc giao dịch hụi, chị H chỉ có trách nhiệm về nghĩa vụ thanh toán tiền hụi với chị V, chị V có trách nhiệm và nghĩa vụ thanh toán tiền hụi cho bà M theo giao dịch dân sự sang hụi cho bà M mà chị V đã cam kết. Nay hụi chị V chưa thực hiện xong, chị V đã bỏ đi nơi khác, không rõ địa chỉ. Cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M và áp dụng các điều luật để xét xử là có căn cứ. Bà M kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ mới nên không chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh là có căn cứ nên chấp nhận.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Ngô Thị M được miễn tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận kháng cáo của bà Ngô Thị M.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 280, 281, 282, 479 Bộ luật dân sự năm 2005; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí;
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị M về việc “tranh chấp hợp đồng góp hụi” đối với chị Nguyễn Thị Thanh H.
2. Án phí:
2.1. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Ngô Thị M được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chi cục Thi hành án dân sự huyện C chi trả lại bà M số tiền 900.000 đồng (Chín trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0019037 ngày 10/4/2018;
Chị Nguyễn Thị Thanh H và chị Nguyễn Thị V không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
2.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Ngô Thị M được miễn tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 24/2019/DS-PT ngày 26/02/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi
Số hiệu: | 24/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về