Bản án 24/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC – TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 24/2018/HS-ST NGÀY 21/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Duy D, sinh năm 1985 tại thôn H, xã Đ, huyện M, thành phố Hà Nội; nơi đăng ký thường trú và nơi sinh sống: Thôn H, xã Đ, huyện M, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Khắc H và bà Nguyễn Thị A; có vợ Bùi Thị Y và 01 con chung; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 194/2006/HSST ngày 27/10/2006 Toà án nhân dân tỉnh Hà Tây xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản, Bản án số10/2007/HSST ngày 24/4/2007 Toà án nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về  tội Trốn khỏi nơi giam giữ; bị bắt, tạm giam từ ngày 27/02/2018 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 15 phút ngày 27/02/2018, Nguyễn Duy D mượn xe máy Biển kiểm soát 29P1-292.19 của anh Phạm Văn X, sinh năm 1991 ở thôn H, xã Đ, huyện M đi từ nhà đến khu vực thôn P, mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến gần hiệu thuốc Tùng Nhung, D hỏi mua và được một nam thanh niên bán cho một lượng ma túy với số tiền 1.000.000 đồng, khi D vừa cầm trên tay đi về thì bị Công an huyện Mỹ Đức bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 1476/KLGĐ-PC54 ngày 06/3/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông để trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 2,674 gam”.

Cáo trạng số 33/CT-VKS-MĐ ngày 29/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức truy tố Nguyễn Duy D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là đối tượng nghiện hút, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu  tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng truy tố. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 27/02/2018, Nguyễn Duy D đã tàng trữ trái phép 2,674 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng.

Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, nên đã phạm vào tội

“Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại tới chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, tác động xấu đến trật tự trị an của địa phương, nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội.

[2] Xem xét các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Nguyễn Duy D không có tình tiết tăng nặng; quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên xét bị cáo có nhân thân xấu, đã từng hai lần bị kết án về các hành vi vi phạm pháp luật, nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật nên cần áp dụng hình phạt ở mức cao của khung điều luật xét xử để đảm bảo tác dụng giáo dục, cải tạo riêng và phòng ngừa chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo nghiện ma túy, không có công việc và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4] Về nguồn gốc ma túy: Do Nguyễn Duy D không xác định được tên tuổi, địa chỉ của đối tượng cung cấp ma túy, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ là có căn cứ.

[5] Về tang vật chứng:

Đối với 2,674 gam ma túy loại Methamphetamine thu giữ của Nguyễn Duy D là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chiếc xe Biển kiểm sát 29P1-292.19, qua xác minh đăng ký xe là của chị Trần Thị B, sinh năm 1959, địa chỉ: Tổ 42, phường Y, quận C, thành phố Hà Nội đã bán lại cho anh Phạm Văn X. Ngày 27/02/2018, anh X cho bị cáo mượn xe nhưng không biết D dùng xe để đi mua ma túy. Vì vậy, công an huyện Mỹ Đức trả lại xe cho anh X là phù hợp quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự,

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Nguyễn Duy D 42 (Bốn mƣơi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 2,674 gam ma túy loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo.

Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Mỹ Đức và Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức.

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Khoản 1 Điều 21, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Duy D phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về