Bản án 24/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN D, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 24/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/QĐXX-ST ngày 26/9/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hương B, sinh năm 1993. Nơi cư trú: Khu T, phường H, quận D, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1989. Nơi cư trú: Khu T, phường H, quận D, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/7/2018, bản tự khai và trong quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn là chị Trần Thị Hương B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Văn H xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, quận D, thành phố Hải Phòng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H không chịu làm ăn, mải chơi nên kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Vào năm 2017, chị đã làm đơn xin ly hôn anh H nhưng sau đó tòa   án hòa giải nên chị rút đơn về để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên đến nay, anh H vẫn không thay đổi, vợ chồng vẫn không thể chung sống hòa thuận với nhau được.Từ tháng 02/2018, do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở; vợ chồng sống ly thân đến nay, không quan tâm tới nhau về tình cảm và kinh tế. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con chung: Chị và anh H có 01 con chung là Trần Quang H, sinh ngày 10/01/2013, hiện đang ở với chị. Khi ly hôn, chị nhận nuôi con. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, hai vợ chồng tự thỏa thuận.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án cũng như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh H, anh H đã nhận trực tiếp nhưng anh H không cung cấp lời khai cũng như không lên Tòa án để giải quyết việc ly hôn với chị B.

Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ tại gia đình anh H, gia đình chị B và tại địa phương nơi chị B và anh H cư trú, xác định: Hiện tại anh H vẫn cư trú tại nhà bố mẹ đẻ ở khu T, phường H, quận D. Chị B và anh H chung sống hòa thuận đến thời gian gần đây xảy ra mâu thuẫn như chị B trình bày ở trên. Gia đình hai bên đã tham gia hòa giải cho anh chị nhưng không thành. Hiện tại chị B đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân không còn sự quan tâm tới nhau về tình cảm và kinh tế.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H đều vắng mặt nên không hòa giải được. Tòa án đã mở phiên tòa đưa vụ án ra xét xử vào ngày 12/10/2018 nhưng anh H vắng mặt. Tòa án đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 Bộ luật Tố tụng dân sự và ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào ngày 25/10/2018.

Tại phiên tòa hôm nay, chị B vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị ly hôn anh H. Về con chung, chị đề nghị được nuôi con chung; vấn đề cấp dưỡng nuôi con, hai vợ chồng tự thỏa thuận.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận D thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án và ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Hương B và anh Trần Văn H; về con chung, giao cho chị B tiếp tục nuôi con chung là Trần Quang H, sinh ngày 10/01/2013; vấn đề cấp dưỡng nuôi con, vợ chồng tự thỏa

thuận. Về tài sản chung vợ chồng, chị B và anh H không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị B có đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận D giải quyết ly hôn với anh H cư trú tại phường H, quận D, Hải Phòng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận D, thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Do các đương sự không thống nhất về việc giải quyết vụ án, không hòa giải được nên Tòa án nhân dân quận D đã đưa vụ án ra xét xử. Anh Trần Văn H đã được Tòa án nhân dân quận D tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất không có lý do. Do đó, Tòa án đã hoãn phiên tòa, ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào ngày 25/10/2018 và tống đạt trực tiếp cho anh H nhưng tại phiên tòa hôm nay anh H vẫn vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H theo thủ tục chung.

- Về quan hệ hôn nhân:

 [3] Chị Trần Thị Hương B và anh Trần Văn H xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định Luật hôn nhân và gia đình. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

 [4] Quá trình chung sống, chị B và anh H phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H mải chơi, không có sự quan tâm tới vợ, con. Kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn; vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra xô xát, cãi vã. Gia đình hai bên đã hòa giải nhiều lần nhưng đến nay không thể hòa giải được. Hiện tại chị B và anh H đã sống ly thân, không còn sự quan tâm tới nhau.Quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã tiến hành hòa giải hai lần nhưng anh H đều vắng mặt nên không hòa giải được. Theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình: "1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. 2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác". Như vậy, có thể thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị B và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu của chị B về việc xin ly hôn anh H là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình nên cần chấp nhận.

- Về con chung:

 [5] Hội đồng xét xử xét thấy, chị B có công việc và thu nhập ổn định, hiện tại chị đang nuôi con chung và đảm bảo về vật chất và tinh thần cho cháu. Quá trình giải quyết vụ án, chị B có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con. Yêu cầu của chị B về việc được nuôi con phù hợp với thực tế và đảm bảo quyền lợi ích của con chung. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị B, giao cháu Trần Quang H, sinh ngày 10/01/2013 cho chị B tiếp tục nuôi con theo quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; vấn đề cấp dưỡng nuôi con, do chị B không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung:

 [6] Chị B và anh H không yêu cầu nên không giải quyết.

- Về án phí

 [7] Chị B là nguyên đơn trong vụ án ly hôn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

 [8] Chị B và anh H được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Hương B và anh Trần Văn H.

2. Về con chung: Giao cho chị B trực tiếp nuôi con chung Trần Quang H, sinh ngày 10/01/2013 cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, hai bên tự thỏa thuận.

Không ai được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau ly hôn.

3. Về án phí: Chị Trần Thị Hương B là nguyên đơn phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai nộp tiền tạm ứng án phí số 14405 ngày 06 tháng 7 năm 2018, tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận D, thành phố Hải Phòng.

4. Về quyền kháng cáo:

Chị Trần Thị Hương B có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Trần Văn H vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:24/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Dương Kinh - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về