Bản án 24/2017/HSST ngày 30/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 24/2017/HSST NGÀY 30/06/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã Liên Hiệp, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử lưu động công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 16/2017/HSST ngày 30 tháng 5  năm 2017 đối với bị cáo: PHÀN TÀ L (Tên gọi khác: Phàn Văn T), sinh năm 1987 tại huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang; trú tại: Thôn Tân Hạ, xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 0/12; con ông Phàn Tà C, (đã chết) và bà Phàn Xà L, sinh năm 1940; vợ con: chưa có. Tiền sự: Không; Tiền án: Có 01 tiền án, ngày 24/6/2015 bị cáo bị Toà án nhân dân huyện Hoàng Su Phì xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự (Bản án số 12/2015/HSST). Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/3/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Quang. (Có mặt tại phiên toà).

Người bị hại:

- Anh Trần Hữu L, sinh năm 1984; trú tại: Đội 1, thôn Tân Thành, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt có lý do

- Anh Vương Văn Đ, sinh năm 1987; trú tại: Thôn Trung Tâm, xã Liên Hiệp, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Có mặt tại phiên toà

NHẬN THẤY

Bị cáo Phàn Tà L bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Phàn Tà L, sinh năm 1987, trú tại thôn Tân Hạ, xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 10/3/2017,   Phàn Tà L được mãn hạn tù trở về địa phương. Trên đường từ trại giam Quyết Tiến thuộc xã Thượng Ấm, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang về nhà. Khoảng 08 giờ ngày 21/3/2017 Phàn Tà L đi bộ một mình theo hướng Bắc Quang - Hà Giang. Khi đi đến địa phận thôn Tân Tiến, xã Hùng An, huyện Bắc Quang Phàn Tà L thấy anh Trần Hữu L dựng xe máy nhãn hiệu SUFAT, sơn màu nâu, biển kiểm soát 23D1 - 075.29 dựng ở lề đường Quốc Lộ II để tìm chỗ đi vệ sinh. Lợi dụng sơ hở của anh Trần Hữu L, Phàn Tà L đến gần chiếc xe máy lấy 01 chùm chìa khóa (Phàn Tà L nhặt được trong quá trình đi từ Trại giam Quyết Tiến, tỉnh Tuyên Quang lên tỉnh Hà Giang) trong túi quần có 04 chìa, thân chìa được làm bằng kim loại, cán chìa được bọc bằng nhựa màu đen có chữ HONDA mở được ổ khóa điện và khởi động xe. Sau đó, Phàn Tà L điều khiển xe máy theo hướng Bắc Quang - Hà Giang. Khi đến ngã ba Pắc Há, Phàn Tà L rẽ về phía bên tay phải hướng Pắc Há - Liên Hiệp. Đi được khoảng 30km thấy không giống đường về nhà, Phàn Tà L đã điều khiển xe máy biển kiểm soát 23D1 - 075.29 quay lại hướng Liên Hiệp - Pắc Há. Quan sát thấy chiếc xe máy nhãn hiệu AURIGA biển kiểm soát 22K5 - 1996 của anh Vương Văn Đ dựng ở bên trái đường vào nhà anh Vương Văn Đ, Phàn Tà L nảy sinh ý định để chiếc xe máy biển kiểm soát 23D1 - 075.29 đã trộm cắp ở lại vì sợ khi quay ra đường Quốc lộ 2 sẽ bị cơ quan chức năng phát hiện mà trộm cắp xe máy nhãn hiệu AURIGA biển kiểm soát 22K5 - 1996 của anh Vương Văn Đ để đi về nhà. Phàn Tà L tiếp tục sử dụng chùm chìa khóa trước đó đã mở ổ khóa điện của xe máy BKS 22K5 - 1996. Thấy đèn mo sáng, Phàn Tà L nổ máy và điều khiển xe biển kiểm soát 22K5 - 1996 theo hướng Liên Hiệp - Pắc Há. Đi được khoảng 01 km sợ bị phát hiện nên Phàn Tà L đã để xe máy lại phía bên phải đường Quốc lộ 279 thuộc thôn Đi, xã Liên Hiệp và đi bộ theo hướng Pắc Há. Khi đi đến Trung tâm y tế xã Bằng Hành thì bị Công an xã Bằng Hành phát hiện và bắt giữ. Mục đích Phàn Tà L trộm cắp 02 chiếc xe máy để làm phương tiện về nhà ở xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.

Tại kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Bắc Quang ngày 28/3/2017 kết luận: Giá trị còn lại của 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SUFAT, sơn màu nâu, biển kiểm soát 23D1 - 075.29 của anh Trần Hữu L có giá trị 5.000.000đ (Năm triệu đồng); 01 chiếc xe máy nhãn hiệu AURIGA sơn màu nâu, biển kiểm soát 22K5 - 1996 của anh Vương Văn Đ có giá trị 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Tổng tài sản Phàn Tà L chiếm đoạt có giá trị 7.000.000đ (Bảy triệu đồng).

Tại Cơ quan điều tra, Phàn Tà L khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 21/3/2017, tại thôn Tân Tiến, xã Hùng An, huyện Bắc Quang, lợi dụng sự sơ hở của anh Trần Hữu L, bị cáo đã trộm cắp 01 xe máy nhãn hiệu SUFAT, sơn màu nâu, biển kiểm soát 23D1 - 075.29 dựng ở lề đường Quốc Lộ II mục đích để đi về nhà. Khi điều khiển xe máy đến địa phận xã Liên Hiệp, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang bị cáo biết mình đi nhầm đường về nhà và đã điều khiển xe quay lại hướng ra ngã ba Pắc Há, nhưng vì sợ bị cơ quan chức năng phát hiện nên khi nhìn thấy chiếc xe máy nhãn hiệu AURIGA biển kiểm soát 22K5 - 1996 của anh Vương Văn Đ dựng ở bên trái đường vào nhà anh Vương Văn Đ, bị cáo đã để xe máy biển kiểm soát 23D1 - 075.29 ở lại mà sử dụng chùm chìa khóa trước đó mở ổ khóa điện của xe máy 23D1 - 075.29 để mở khoá điện và trộm cắp xe máy biển kiểm soát 22K5 - 1996. Đi được khoảng 01 km lo sợ hành vi trộm cắp bị lộ, bị cáo đã để xe máy biển kiểm soát 22K5 - 1996 ở phía bên phải đường Quốc lộ 279 thuộc thôn Đi, xã Liên Hiệp và đi bộ theo hướng Pắc Há. Khi đi đến Trung tâm y tế xã Bằng Hành thì bị cáo bị Công an xã Bằng Hành phát hiện và bắt giữ.

Quá trình điều tra, những người bị hại khai nhận như sau: Anh Trần Hữu L khai, ngày 21/3/2017 anh dựng xe máy nhãn hiệu SUFAT, sơn màu nâu, biển kiểm soát 23D1 - 075.29 dựng ở lề đường Quốc Lộ II để tìm chỗ đi vệ sinh, sau đó đã bị mất. Anh Vương Văn Đ khai anh bị mất xe mô tô BKS: 22K5 - 1996 để ở gần đường vào nhà thuộc địa phận xã Liên Hiệp, huyện Bắc Quang.

Tại bản Cáo trạng số 22/KSĐT ngày 28 tháng 5 năm 2017, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố bị cáo Phàn Tà Phàn Tà L về tội "Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang duy trì quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 138; đoạn 1, đoạn 2 điểm g khoản 1 Điều 48; Điểm p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 xử phạt Phàn Tà L từ 02 (Hai) năm đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong phần tranh luận, bị cáo nhất trí với tội danh, khung hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về địa phương làm ăn lương thiện; người bị hại Vương Văn Đ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Như vậy, đã có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Phàn Tà Phàn Tà L phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự quy định: "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

XÉT THẤY

1) Về tố tụng: Sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, ngày 19/6/2017 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã có Quyết định số 04/QĐ-KSXXHS về việc cử Kiểm sát viên Ấu Bá Lãng thay Kiểm sát viên Hoàng Ngọc Tuyến thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà sơ thẩm, do công việc đột xuất của đơn vị. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà, sau khi nghe chủ toạ phiên toà giải thích về quyền được thay đổi những người tiến hành tố tụng theo quy định tại Điều 202 Bộ luật tố tụng hình sự nhưng bị cáo, người bị hại nhất trí với thành phần Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên tham gia phiên toà, không đề bị thay đổi ai. Về phía những người tham gia tố tụng: Tại phiên toà vắng mặt người bị hại Trần Hữu L (có lý do) và người làm chứng Hoàng Kim T (không lý do). Trong giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ, đồng thời người bị hại Trần Hữu L có đơn không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại, vì tài sản trộm cắp đã được thu hồi và trả lại cho anh Trần Hữu L là chủ sở hữu hợp pháp. Xét thấy, đây là vụ án điểm do 3 ngành Công an huyện Bắc Quang, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, Toà án nhân dân huyện Bắc Quang xây dựng, do đó vụ án cần được đưa ra xét xử kịp thời, nhằm tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật rộng rãi trong quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm tại địa phương. Căn cứ vào Điều 191 và Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự, trên cơ sở ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, phiên toà được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

2) Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phàn Tà L khai nhận ngày 21/3/2017 tại địa phận thôn Tân Tiến, xã Hùng An, huyện Bắc Quang Phàn Tà Phàn Tà L trộm cắp 01 xe máy nhãn hiệu SUFAT, sơn màu nâu, biển kiểm soát 23D1 - 075.29 dựng ở lề đường Quốc Lộ II của anh Trần Hữu L. Cùng ngày, tại thôn Trung Tâm, xã Liên Hiệp bị cáo tiếp tục trộm cắp 01 xe máy biển kiểm soát 22K5 - 1996 của anh Vương Văn Đ, mục đích Phàn Tà L trộm cắp 02 chiếc xe máy để làm phương tiện về nhà ở xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang nhưng sợ bị lộ nên bị cáo để 02 xem máy lại tại các vị trí khác nhau, sau đó bị cáo 1 mình tự đi về nhà thì bị bắt giữ. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phàn Tà L phạm tội "Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra về thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện tội phạm và đặc điểm, chủng loại của tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt. Đánh giá tính chất, mức độ vụ án: Hội đồng xét xử thấy rằng, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra thuộc loại ít nghiêm trọng song đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác là khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang lo lắng cho người dân trong việc quản lý tài sản của mình

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo Phàn Tà L đã 02 lần trộm cắp tài sản, giá trị tài sản mỗi lần trộm cắp đều từ 2 triệu đồng trở lên nên thuộc trường hợp "phạm tội nhiều lần"; mặt khác tại Bản án số 12/2015/HSST ngày 24/6/2015 Toà án nhân dân huyện Hoàng Su Phì xử phạt bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Sau khi mãn hạn tù, trên đường từ Trại giam về nhà bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp "tái phạm". Đây là hai tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại đoạn 1, đoạn 2 Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Song Hội đồng xét xử cũng xét thấy, sau khi bị bắt bị cáo đã thành khẩn khai báo; tại phiên toà người bị hại Vương Văn Đ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về địa phương phụng dưỡng mẹ già là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999 nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.

Đánh giá thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Trong vụ án này 02 chiếc xe máy bị cáo Phàn Tà L trộm cắp đã được tìm thấy và trả lại nguyên vẹn cho những người bị hại. Quá trình điều tra anh Trần Hữu L và anh Vương Văn Đ có đơn không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại, do đó Hội đồng xét xử không đề cập đến.

Về vật chứng: Cần áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng dân sự để tịch thuỷ tiêu huỷ toàn bộ vật chứng của vụ án.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phàn Tà L phạm tội "Trộm cắp tài sản”. Áp dụng Khoản 1 Điều 138; đoạn 1, đoạn 2 điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1, khoản 2  Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự 1999; Xử phạt bị cáo Phàn Tà L: 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt giam (ngày 22/3/2017).

2. Việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu huỷ 02 chùm chìa khoá bằng kim loại, 01 chùm có 04 chìa được làm bằng kim loại, cán chìa khoá được bao bọc bằng nhựa màu đen có dòng chữ HONDA; 01 chùm có 04 chìa khoá làm bằng kim loại. (Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/6/2017 giữa Công an huyện Bắc Quang và chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang)

3. Về án phí: Bị cáo Phàn Tà L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo, người bị hại Vương Văn Đ có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại Trần Hữu L vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2017/HSST ngày 30/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:24/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về