Bản án 24/2017/HSST ngày 09/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 24/2017/HSST NGÀY 09/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2017/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2017, đối với bị cáo: Hoàng Nam H, sinh ngày 20/4/1989; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Lớp 8/12; con ông Hoàng Minh H và bà Trần Thị B; có vợ là Trần Thị H và 01 con còn nhỏ; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Ba Đồn từ ngày 04/5/2017 cho đến nay. Theo lệnh trích xuất bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Hoàng Minh Đ, trú tại: Thôn M, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình - vắng mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Đoàn Thị Mỹ H, trú tại: Thôn N, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình - vắng mặt

NHẬN THẤY

Bị cáo Hoàng Nam H bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn truy tố về hành vi như sau:

Vào tối ngày 06/02/2017, Hoàng Nam H cùng anh Hoàng Minh Đ và anh Phan Ngọc S ngồi uống rượu tại nhà anh S tại thôn N, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Đến khoảng 1 giờ 30 phút sáng ngày 07/02/2017, anh Đ vào phòng của anh S nằm ngủ, anh S và H tiếp tục ngồi uống rượu thêm một lúc nữa thì nghỉ. Khi vào phòng thấy anh Đ đang ngủ say nên H nảy sinh ý định lấy trộm sợi dây chuyền bạc của anh Đ đang mang trên cổ. H dùng hai tay tháo móc khóa và lấy sợi dây chuyền bạc trên cổ anh Đ, sau đó giấu ở dưới chiếu nơi anh Đ đang nằm và H nằm xuống ngủ bên cạnh anh Đ. Đến khoảng 2 giờ sáng ngày 07/02/2017, anh Đ tỉnh dậy và phát hiện không thấy sợi dây chuyền của mình nên đã gọi anh S dậy hỏi: “mi lấy sợi dây chuyền thì trả lại cho bác”, anh S nói: “có gì ngày mai em tìm lại cho” rồi tiếp tục nằm ngủ, còn anh Đ đi về nhà bố mình tại thôn M, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Đến khoảng 7 giờ ngày 07/02/2017, H ngủ dậy và lấy sợi dây chuyền trộm được mang đến cửa hàng vàng bạc của chị Đoàn Thị Mỹ H bán được 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), số tiền bán được Hạnh tiêu xài cá nhân hết.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 sợi dây chuyền bạc, trọng lượng 56 chỉ, đã qua sử dụng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản tang vật vụ án số 08/HĐ ngày 07 tháng 4 năm 2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Ba Đồn xác định:

01 sợi dây chuyền bạc có trọng lượng 56 chỉ, đã qua sử dụng, giá trị thực tế tại thời điểm bị mất trộm là 2.520.000 đồng (Hai triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng)

Ngày 26 tháng 6 năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã xử lý vật chứng trả lại tài sản, trả lại 01 sợi dây chuyền bạc, trọng lượng 56 chỉ, đã qua sử dụng cho chủ sở hữu Hoàng Minh Đ. Anh Hoàng Minh Đ không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Liên quan trong vụ án có chị Đoàn Thị Mỹ H, là người đã mua lại sợi dây chuyền mà Hoàng Nam H trộm cắp mà có. Tuy nhiên khi mua chị H không biết đó là tài sản do H trộm cắp mà có nên hành vi của chị H không cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 250 Bộ luật Hình sự nên Cơ quan CSĐT Công an thị xã Ba Đồn chỉ tiến hành nhắc nhở, giáo dục là phù hợp.

Tại bản cáo trạng số 22/VKS-KT ngày 12/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn truy tố bị cáo Hoàng Nam H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Nam H từ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 04/5/2017.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của kiểm sát viên, ý kiến của bị cáo tại phiên tòa.

XÉT THẤY

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đều thống nhất khai nhận: Ngày 06/02/2017, lợi dụng sự chủ quan, sơ hở trong việc quản lý tài sản của người bị hại Hoàng Minh Đ, bị cáo đã chiếm đoạt của anh Đ 01 sợi dây chuyền bạc, có trọng lượng 56 chỉ nhằm mục đích bán tiêu xài cá nhân. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 2.520.000 đồng (Hai triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng). Lời khai nhận của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với không gian, thời gian, địa điểm xảy ra vụ án, phù hợp với đặc điểm tài sản bị cáo đã chiếm đoạt cũng như các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Hoàng Nam H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác và gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, đã có vợ con, có sức khỏe, có nhận thức và hiểu biết pháp luật nhất định nhưng không có ý thức bồi dưỡng kiến thức và đạo đức cho bản thân để trở thành người công dân tốt, nêu gương cho con trẻ và giúp ích cho gia đình và xã hội, mà chỉ vì thích chơi bời, thích hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Năm 2009, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xử 15 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để tu dưỡng đạo đức, lối sống, trở về cuộc sống làm việc lương thiện mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Điều này cho thấy bị cáo là đối tượng nguy hiểm, sẵn sàng thực hiện hành vi phạm tội khi có điều kiện nên cần phải áp dụng những quy định của pháp luật để xét xử nghiêm, quyết định cho bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đều khai báo thành khẩn, tỏ thái độ ăn năn hối cải, tài sản mà bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng

Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an thị xã Ba Đồn đã thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu là anh Hoàng Minh Đ 01 sợi dây chuyền bạc, có trọng lượng 56 chỉ, đã qua sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại anh Hoàng Minh Đ đã nhận lại được tài sản bị trộm là 01 sợi dây chuyền bạc có trọng lượng 56 chỉ và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) mà chị Đoàn Thị Mỹ H mua sợi dây chuyền của bị cáo H nhưng hiện cơ quan điều tra đã thu giữ sợi dây chuyền trả lại cho người bị hại. Số tiền trên hiện bị cáo chưa trả cho chị H. Vì vậy cần buộc bị cáo phải hoàn trả số tiền trên cho chị H là hoàn toàn phù hợp.

Về án phí: bị cáo Hoàng Nam H phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

I. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Nam H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 138; các điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Hoàng Nam H 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 04/5/2017.

Tiếp tục tạm giam bị cáo thời hạn 45 ngày theo Quyết định tạm giam bị cáo tại phiên tòa để đảm bảo công tác thi hành án.

II. Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong

III. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 127 và Điều 131 Bộ luật Dân sự, xử buộc bị cáo Hoàng Nam H phải có nghĩa vụ hoàn trả cho chị Đoàn Thị Mỹ H số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng)

III. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự và và Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Hoàng Nam H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

“Tuyên bố, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và từ khi có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chưa thi hành án, theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định, tương ứng với thời gian phải thi hành án để trả cho người được thi hành án”.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Án xử sơ thẩm, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (đối với người có mặt tại phiên tòa) hoặc trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án (đối với người vắng mặt tại phiên tòa).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2017/HSST ngày 09/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:24/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về