Bản án 241/2021/HS-ST ngày 10/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 241/2021/HS-ST NGÀY 10/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 10/8/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 189/2021/TLST-HS ngày 08/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 381/2021/QĐXXST-HS ngày 26/7/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Quyết T. Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 09/7/1977. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm 13B, xã N, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Ngọc T, sinh năm 1945 và con bà: Lê Thị T, sinh năm 1947; Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1987 và có 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 01/02/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 05 (Năm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 49/2008/HSST. Ra trại ngày 31/8/2011.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2021 đến nay. hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 27/02/2021 Lê Quyết T có gặp một người đàn ông tên Hùng (không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) và được H cho 01 (một) gói ma túy đá được gói bằng bao ni lông màu trắng. Sau đó T đưa gói ma túy về nhà của mình cất giấu để sau này sử dụng. Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 11/3/2021, T đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Nguyễn Quang V (sinh năm 1979, trú tại khối T, phường L, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An) gọi điện nhờ T đến phòng trọ của Vinh ở số 1, ngõ 1 đường P thuộc khối 4, phường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An để sửa điện trong phòng trọ và T đồng ý. Sau đó T lấy gói ma túy đá được bạn cho trước đó bỏ vào gói thuốc lá Thăng Long rồi đi đến phòng trọ của Vinh. Khi đến nơi, trong phòng trọ có chị Phùng Thị Hồng T (sinh năm 1990, trú tại xóm Q, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An) là bạn gái của V đang dắt xe đi làm. Tại phòng trọ, V chỉ cho T những nơi cần sửa điện sau đó mượn xe của T đi có việc. Trong quá trình sửa điện T để gói thuốc lá Thăng Long bên trong có gói ma túy từ túi quần ra để trên bàn. Đến khoảng 18 giờ 50 phút cùng ngày, chị T về phòng trọ và cùng lúc này Tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, Tổ công tác phát hiện thu giữ ở trên bàn uống nước 01 (một) gói thuốc lá Thăng Long màu vàng, giữa lớp giấy và lớp bao ni lông màu trắng bọc bên ngoài gói thuốc lá có 01 (một) gói ni lông màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. T khai nhận với Tổ công tác chất tinh thể màu trắng là ma túy đá T cất giấu để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt. Ngoài ra Tổ công tác còn phát hiện trên nền nhà phòng trọ một chai nhựa màu trắng, phía trên nắp chai có đục 02 lỗ, một lỗ gắn ống hút nhựa màu trắng và một lỗ gắn ống cóng bằng thủy tinh màu trắng, đầu cóng có hình bầu tròn chứa chất tinh thể màu nâu. Lúc này V về phòng trọ và khai nhận đây là bộ cóng, bên trong chứa ma túy đá là của V. Sau đó Tổ công tác dẫn giải người cùng tang vật về trụ sở Công an thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Lê Quyết T khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối với Nguyễn Quang V, tại thời điểm bị bắt và trong quá trình điều tra thừa nhận số ma túy trong cóng để trong phòng trọ của V không liên quan đến gói ma túy thu giữ của Lê Quyết T nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Quang V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” trong một vụ án khác để điều tra và xử lý theo quy định.

Ngày 11/3/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và ra quyết định trưng cầu giám định ngày 12/3/2021. Tại Kết luận giám định số 419/KL- PC09(MT) ngày 16/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Quyết T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Quyết T có khối lượng là 0,235 gam (Không phẩy hai trăm ba mươi lăm gam).

Vật chứng của vụ án: 01 (một) gói ma túy (Methamphetamine) có khối lượng 0,235 gam, sau khi lấy mẫu giám định còn 0,135 gam hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh, Nghệ An.

Cáo trạng số 218/CT-VKS-TPV ngày 07/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh truy tố để xét xử Lê Quyết T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu quan điểm về vụ án, giữ nguyên tội danh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với Lê Quyết T. Đề nghị xử phạt Lê Quyết T từ 18 (Mười tám) tháng tù đến 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng: áp dụng điều 106 BLTTHS, điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo. Áp dụng điều 136 BLTTHS, điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định buộc Lê Quyết T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí HSST.

Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý với nội dung bản cáo trạng, luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh và không tranh luận gì. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 18 giờ 50 phút, ngày 11/3/2021, tại phòng trọ số 1, ngõ 1 đường P thuộc địa phận khối 4, phường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An Lê Quyết T có hành vi cất giấu trái phép 0,235 gam (không phẩy hai trăm ba mươi lăm gam) Ma túy (Methamphetamine) nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo phạm vào loại tội nghiêm trọng, hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định về quản lý của Nhà nước về ma túy. Ma túy là chất gây nghiện độc hại và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất dấu ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng do thiếu bản lĩnh, không làm chủ được bản thân nên đã sa vào con đường phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử về hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét tình tiết giảm nhẹ thấy rằng trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy khi quyết định hình phạt nên xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như mức đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, cần chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo lao động tự do thu nhập không ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[5] Trong vụ án này theo lời khai của Lê Quyết T thì người đàn ông tên Hùng đã cho bị cáo ma túy nhưng bị cáo không rõ lai lịch, địa chỉ nên cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với Nguyễn Quang V, tại thời điểm bị bắt và trong quá trình điều tra thừa nhận số ma túy trong cóng để trong phòng trọ của V không liên quan đến gói ma túy thu giữ của Lê Quyết T nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vinh đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Quang V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” trong một vụ án khác để điều tra và xử lý theo quy định nên Hội đồng không xem xét.

[6]. Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Quyết T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lê Quyết T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 11/3/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư niêm phong dán kín, trong chứa ma túy (Methamphetamine), ghi thu giữ vật chứng của Lê Quyết T. (Vật chứng trên hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo phiếu nhập kho vật chứng số NK 2021/332 ngày 04/8/2021).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Quyết T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 241/2021/HS-ST ngày 10/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:241/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về