TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 241/2018/HS-ST NGÀY 16/07/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 7 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 351/2018/TLST-HS, ngày 13/6/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2735/2018/QĐXXST- HS ngày 21/6/2018, đối với bị cáo:
Trần Như Minh P, sinh năm: 1997 tại tỉnh D; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: thôn A, xã B, thị xã C, tỉnh D; Chỗ ở: 42/267 Đường A1, Phường B1, quận C1, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Trần N (1966) và bà Trương Thị T (1972); Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không;
Bị bắt tạm giam từ 10/3/2017 (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 10/3/2017, bị cáo Trần Như Minh P điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại Taurus, màu đen, biển số 54L4-7476 đi đến hẻm số 43 Đường A1, quận C1 thì gặp Trương Trọng H (sinh năm 1999; thường trú: 54/2 Đường A2, phường B2, Quận C2). Lúc này, P rủ H đi gặp một người có tên là Phước (không rõ lai lịch) để đòi số tiền 800.000 đồng tại khu vực chợ Bà Chiểu, H đồng ý. P điều khiển xe chở H đến chợ Bà Chiểu nhưng không gặp được Phước. Lúc này, H nói với P đưa xe cho H chở để đi qua nhà mẹ nuôi của H xin tiền tiêu xài, P đồng ý. H điều khiển xe môtô chở P hướng từ quận Bình Thạnh về Quận 1. Khi đi ngang qua số 66 Trường Sa, Phường 17, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, cả hai nhìn thấy ông HS (sinh năm 1968; Quốc tịch Hàn Quốc; Hộ chiếu số: M0335xxxx) đang đứng bấm điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S6, màu đen tại góc ngã ba đầu hẻm số 64 Trường Sa, Phường 17, quận Bình Thạnh. H và P đã chạy qua chỗ ông HS đứng khoảng 05 đến 06 mét, rồi rẽ trái quay đầu xe theo hướng ngược lại và đi vào hẻm 64 Trường Sa. Khi H đang điều khiển xe vào hẻm 64 cách vị trí ông HS khoảng 0,5 mét, P ngồi phía sau dùng tay trái giật điện thoại Samsung Galaxy S6 màu đen của ông HS, nhưng chỉ nắm được phần đỉnh đầu của điện thoại, ông HS giằng co giữ lại nên P không giật được. Ngay lúc đó, ông Nguyễn Tuấn Khải và ông Nguyễn Cẩm Nam là trinh sát Công an quận Bình Thạnh đang tuần tra nhìn thấy H và P giật điện thoại của ông HS nên đuổi theo. Khi đến trước số 97 Nguyễn Cửu Vân, ông Nam và ông Khải ép xe bắt giữ được P và H giao cho Công an phường 17, quận Bình Thạnh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đóCông an Phường 17, quận Bình Thạnh chuyển hồ sơ cùng P và H đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an quận Bình Thạnh điều tra thụ lý.
Quá trình điều tra, bị cáo Trần Như Minh P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên, phù hợp với lời khai của bị hại và người làm chứng.
Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an quận Bình Thạnh, Trương Trọng H phản cung và không thừa nhận cùng P thực hiện hành vi cướp giật, mà khai nhận không có bàn bạc gì với H, khi H điều khiển xe đi qua chỗ ông HS, P ngồi sau giật điện thoại của ông HS. Hiện H đã bỏ địa phương đi đâu không rõ.
Tại Thông báo Kết luận số 554/TB-TCKH của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thạnh, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S6 có giá 3.500.000 đồng.
Ngày 26/6/2017, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh ra Quyết định chuyển vụ án hình sự đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh để thụ lý điều tra theo thẩm quyền.
Vật chứng vụ án:
- 01 điện thoại Samsung Galaxy S6 (Công an Phường 17, quận Bình Thạnh đã trả lại cho ông HS).
- 01 áo thun sọc trắng đen nhãn hiệu No Boundaries thu giữ của Trần Như Minh P.
- 01 xe Yamaha Taurus, màu đen, biển số 54L4-7476; số khung 045576, số máy 16S1045581, xác minh tại Phòng PC67 - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết quả: xe do ông Trần Như Minh T, địa chỉ 117/2A/22 Đường A1, Phường B5, quận C1 đứng tên chủ sở hữu. Ông T khai nhận chiếc xe trên là của ông Trần N (sinh năm 1966; thường trú xã B, thị xã C, tỉnh D) là cha ruột của Trần Như Minh P, do ông Trần N không có hộ khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh, nên nhờ ông T đứng tên chủ sở hữu. Khi P sử dụng xe vào việc cướp giật, ông Hiền không biết. Ông Trần N trình bày nội dung như ông T đã khai nhận.
Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an quận Bình Thạnh đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe này cho ông Trần N.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại HS đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.
Bản cáo trạng số 239/CTr-VKS-P2 ngày 07/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Như Minh P về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo mức án từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Trần Như Minh P xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Căn cứ vào lời khai nhận của bị cáo Trần Như Minh P tại phiên tòa, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, xác định được: Vào khoảng 14 giờ 00 ngày 10/3/2017, tại trước hẻm số 64 Trường Sa, Phường 17, quận Bình Thạnh, bị cáo Trần Như Minh P ngồi sau xe của Trương Trọng H, khi H chạy xe đến gần ông HS đang đứng tại góc ngã ba đầu hẻm số 64 Trường Sa, Phường 17, quận Bình Thạnh, bị cáo P đã có hành vi dùng tay trái giật 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S6 của ông HS, có giá trị theo định giá là 3.500.000 đồng. Hành vi của bị cáo P sử dụng xe máy khi giật lấy điện thoại của ông HS là "dùng thủ đoạn nguy hiểm", đủ yếu tố cấu thành tội "Cướp giật tài sản sản" theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại khu vực, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trong mắt du khách nước ngoài, nên cần xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và cải tạo đối với bị cáo.
[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nhận thấy bị cáo P trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, tài sản phạm tội đã thu hồi trả lại cho người bị hại, do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4]. Đối với hành vi của đối tượng Trương Trọng H, trong quá trình điều tra chưa đủ cơ sở khởi tố xử lý, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đối tượng này.
[5]. Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 áo thun sọc trắng đen nhãn hiệu No Boundaries thu giữ của bị cáo Trần Như Minh P là áo bị cáo mặc khi phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 điên thoại di động Samsung Galaxy S6 và 01 xe gắn máy Yamaha Taurus biển số 54L4 - 7476, cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét nữa.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông HS đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Như Minh P phạm tội "Cướp giật tài sản".
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trần Như Minh P 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/3/2017.
Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 áo thun sọc trắng đen nhãn hiệu No Boundaries (Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 329/18 ngày 17/7/2018 của Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
Bị cáo Trần Như Minh P phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.
Bản án 241/2018/HS-ST ngày 16/07/2018 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 241/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về