Bản án 241/2018/HNGĐ-ST ngày 24/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 241/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 205/2018/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Văn C, sinh năm 1982 “Có mặt”

Địa chỉ: Thôn 3, xã H H, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Chị Lê Thị Th, sinh năm 1985 “Vắng mặt”

Địa chỉ: Thôn 3, xã H H, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn anh Lê Văn C, vắng mặt bị đơn chị Lê Thị Th không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/6/2018, bản tự khai ngày 17/7/2018 và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn anh Lê Văn C thể hiện:

Tôi và cô Lê Thị Th tự nguyện kết hôn với nhau, được UBND xã H H cấp giấy chứng nhận kết hôn tháng 5/2009. Sau khi kết hôn khoảng một tuần vợ chồng tôi đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tôi biết cô Thúy không trung thực với tôi về mối quan hệ trước kia của cô ấy. Vì thế vợ chồng tôi đã cãi vã và sống ly thân từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai hay liên lạc gì với nhau. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể kéo dài cuộc sống vợ chồng thêm được nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với cô Th.

Về con: Vợ chồng tôi không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị Th không đến Tòa án để trình bày quan điểm vì bận công việc. Theo lời trình bày ngày 24/7/2018 của ông Lê Sỹ Tlà bố đẻ của chị Th thể hiện:

Cháu C làm đơn ly hôn cháu Th con tôi thì tôi và cháu Th đồng ý cho vợ chồng cháu ly hôn vì vợ chồng cháu đã ly thân 8 năm nay, cháu Th đang bận làm ăn không thể có mặt, chỉ thường liên lạc về.

Về con: Vợ chồng cháu C và Th không có con chung. Th có 01 con riêng với người khác, tên cháu là Lê Quốc Đ, trong giấy khai sinh của cháu không đề tên bố.

Về tài sản: Vợ chồng C và Th không có tài sản chung gì và không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa nguyên đơn anh Lê Văn C không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Anh Lê Văn C và chị Lê Thị Th tự nguyện kết hôn với nhau, được Ủy ban nhân dân xã H H, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn tháng 5/2009 theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau chỉ hòa thuận một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn không thể hòa giải, hàn gắn nổi. Vợ chồng không thể quay về đoàn tụ nên áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lê Văn C là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[2] Về con: Vợ chồng anh chị không có con chung, không đề nghị giải quyết.

[3] Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tố tụng: Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, anh C có đơn đề nghị không hòa giải nên căn cứ Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự không tiến hành hòa giải đối với anh chị. Đối với chị Lê Thị Th dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng do điều kiện công việc nên không có mặt tại Tòa án. Tại phiên tòa ngày 21/8/2018, chị Lê Thị Th đã vắng mặt không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nay căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị là đúng quy định của pháp luật.

Về án phí: Nguyên đơn anh Lê Văn C phải chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Anh Lê Văn C được ly hôn với chị Lê Thị Th.

Về án phí: Nguyên đơn anh Lê Văn C phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0002691 ngày 02 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa.

Nguyên đơn anh Lê Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn chị Lê Thị Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 241/2018/HNGĐ-ST ngày 24/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:241/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về