TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 238/2019/HSST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 242/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 933/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ tên: Cao Trường B, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Số 08/1, LLTK, khóm N, phường S, thành phố C, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: chạy xe hon đa khách; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Trường V và bà Bùi Thị P; vợ: Trần Thị Q (đã ly hôn); con: Chưa có; tiền án: tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 01/12/2011 bị Ủy ban nhân dân thành phố Cà Mau áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Cà Mau thời hạn 24 tháng về hành vi: Nhiều lần sử dụng trái phép và nghiện các chất ma túy. Chấp hành xong ngày 05/12/2013; Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/9/2019 đến nay (bị cáo có mặt).
Bị hại: Bà Huỳnh Thị Thanh H, sinh năm 1978 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số 12, TQK, khóm N, phường N, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 31/8/2019, Cao Trường B điều khiển xe mô tô 69AM-000.20 chỡ khách từ nhà khách Ninh Kiều thuộc phường S, thành phố C, sau khi chỡ khách B quay xe chạy đến nơi đậu xe mô tô của Câu lạc bộ thể dục Hồng Minh thuộc khóm 4, phường 7, thành phố C. Bảo đậu xe sát xe mô tô hiệu Vision biển số 69C1-273.08 của bà Huỳnh Thị Thanh H. Khi đó xe không có người trông coi, Bảo phát hiện trên xe của bà H còn để 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S tại hộc bên trái của xe nên B nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. B dùng tay phải lấy điện thoại ra khỏi hộc xe và cho vào túi quần rồi điều khiển xe đi về nhà thuộc khóm 5, phường 6, thành phố C, tỉnh Cà Mau để cất giấu. Sau khi ra xe phát hiện mất tài sản, bà H trình báo với Công an phường 7, thành phố C. Công an phường 7 tiến hành kiểm tra camera khu vực nơi mất tài sản thì phát hiện B là người trộm tài sản của bà H. Đến 08 giờ 45 phút ngày 01/9/2019, Công an phường 7 mời B về làm việc, B và thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình và giao nộp 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S, 01 áo sơ mi tay dài màu đen, 01 quần Jeans màu xanh đen đã mặc lúc trộm cắp tài sản.
Tại kết luận định giá tài sản số 100/KL-HĐĐG ngày 04/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:
Tính vào thời điểm tháng 08/2019: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S giá trị còn lại 40%: 5.500.000đồng x 40% = 2.200.000 đồng.
Ngày 27/9/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã trả lại cho bà Huỳnh Thị Thanh H 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S.Về trách nhiệm dân sự bà Hiền không yêu cầu gì khác.
Tại bản Cáo trạng số 240/CT-VKS ngày 19/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Cao Trường B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Kiểm sát viên giữ nguyên Cáo trạng truy tố. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Cao Trường B phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 , khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Cao Trường B từ 03 tháng đến 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đề cập xử lý.
Về vật chứng: Đã trả lại nên không đặt ra xem xét. Đối với 01 áo sơ mi màu đen và 01 quần Jeans màu xanh đen bị cáo không yêu cầu nhận lại nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Bị cáo Cao Trường B thừa nhận hành vi phạm tội, về trách nhiệm hình sự bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng.
Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa, xét thấy quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai của bị hại, bị hại không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự nên việc vắng mặt bị hại không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Cao Trường B thừa nhận vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 31/8/2019 bị cáo đã lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S của bà Huỳnh Thị Thanh H tại khu vực khóm 4, phường 7, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo là có cơ sở để chấp nhận, bởi lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và nhiều tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.
Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ việc lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì lười lao động muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi lấy trộm tài sản của bị cáo có giá trị 2.200.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng số 240/CT-VKS ngày 19/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Cao Trường B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.
Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Với tính chất và mức độ thực hiện hành vi của bị cáo và nhân thân của bị cáo cần phải xử phạt nghiêm, tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, khi lượng hình hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị cáo trộm đã được trả cho bị hại, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng để áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự và xét thấy tại phiên tòa bị cáo là người có khuyết tật về thể chất tuy không có giấy chứng nhận là người tàn tật nhưng khuyết tật của bị cáo là thực tế và việc đi lại của bị cáo khó khăn để áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Nhưng dù có giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo cũng cần áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống bình thường của xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, đồng thời cũng để răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.
Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử cân nhắc, xét thấy cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử bị cáo dưới khung thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ sức răn đe, cải tạo với bị cáo. Đồng thời cũng tạo điều kiện để bị cáo sữa chữa sai lầm trở thành người tốt, có ích cho xã hội.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về vật chứng của vụ án: 01 áo sơ mi dài tay màu đen và 01 quần Jeans màu xanh đen bị cáo không yêu cầu nhận lại. Xét thấy không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
[5] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự.
Căn cứ Điều 106, 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Cao Trường B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Cao Trường B 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi dài tay màu đen và 01 quần Jeans màu xanh đen theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/11/2019.
Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng – chưa nộp). Nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị H vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 238/2019/HSST ngày 29/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 238/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về