TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 237/2020/HS-ST NGÀY 27/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 254/2020/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 267/2020/QĐXX–HS ngày 14 tháng 10 năm 2020, đôi vơi bi cao:
Nguyễn Văn K (tên gọi khác B), sinh năm 1995 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở trước ngày bị bắt: Thôn M, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 5/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Đinh Văn Q, sinh năm: 1955 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1957; bị cáo là con út trong gia đình có 4 chị, em.
Tiền án, tiền sự: Không Bị bắt ngày 09-6-2020, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ thành phố Vũng Tàu. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 13 giờ 20 phút ngày 09-6-2020, tại bãi giữ xe nhà bè S, xã L, thành phố V lực lượng Đồn Biên phòng L, Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn K đang tàng trữ 01 (một) gói nilon hàn kín bên trong chứa chất kết tinh màu trắng đục phía dưới quai dép nhựa bên chân trái của K và 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa thảo dược khô, 01 gói gói bằng giấy báo bên trong chứa lá, cành của cây cần sa khô thái nhỏ được giấu trong cốp xe mô tô hiệu Suzuki Satria màu trắng biển số 72C2-26155.
Tại cơ quan điều tra, K khai nhận 01 (một) gói nilon hàn kín bên trong chứa chất kết tinh màu trắng đục bị cơ quan chức năng thu giữ là ma túy đá và 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa thảo dược khô, 01 gói gói bằng giấy báo bên trong chứa lá, cành của cây cần sa khô thái nhỏ. K nghiện ma túy từ năm 2018 đến nay, thường xuyên sử dụng ma túy, cứ hai đến ba ngày K sử dụng ma túy một lần. K mua 01 gói ma túy đá của một người đàn ông khoảng 30 tuổi không rõ nhân thân lai lịch với giá 400.000đ, 02 gói cần sa khô K mua với giá 200.000đ của một người đàn ông ở khu vực H, xã T, Thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không rõ nhân thân lai lịch, K mua nhằm mục đích cất giấu để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang K đang tàng trữ số ma túy nêu trên.
Bản kết luận giám định số 267/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 15 tháng 6 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín gửi đến giám định có khối lượng 0,3345 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.
Bản kết luận giám định số 286/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 19 tháng 6 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, kết luận: Mẫu thảo mộc khô chứa trong một gói nylon hàn kín và gói trong một gói giấy gửi đến giám định có khối lượng 5,0942 gam, là cần sa.
Việc thu giữ và xử lý vật chứng:
+ Về thu giữ vật chứng và các tài sản gồm:
- 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt, qua giám định có khối lượng 0,3345 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.
- 02 gói thảo mộc khô qua giám định có khối lượng 5,0942 gam, là cần sa - 01 điện thoại di dộng hiệu OPPO màu đen có số Imel 1 865222048631893; số Imel 2 865222048631885.
- 01 xe mô tô BKS: 72C2-261.55:
- Số tiền 2.700.000đ (hai triệu bảy trăm ngàn đồng).
+ Về xử lý vật chứng:
- Đối với xe mô tô BKS: 72C2-261.55, qua xác minh là của bà Nguyễn Thị T là mẹ ruột của K, bà T mua trả góp, tiền mua xe của bà T, K chỉ là người đứng tên đăng ký, bà T không biết K sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã ra quyết định trả lại xe cho bà T.
- Số tiền 2.700.000đ (hai triệu bảy trăm ngàn đồng) là tiền của K làm thuê mà có không liên quan đến hành vi phạm tội, K đề nghị trả cho bà T, dó đó Cơ quan Cản sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã ra quyết định trả cho bà T số tiền trên.
Tất cả các vật chứng còn lại hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý.
Bản cáo trạng số 263/CT-VKS ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Tàng trữ bán trái phép chất ma túy” theo điểm i, khoản 1, Điều 249 Bộ Luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo K, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm i, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K mức án từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma tuý là tang vật vụ án; Trả lại 01 điện thoại di dộng hiệu OPPO màu đen có số Imel 1 865222048631893; số Imel 2 865222048631885 cho bị cáo K do không liên quan đến hành vi phạm tội.
- Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Căn cứ lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật bị thu giữ, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:
Vào lúc 13 giờ 20 phút ngày 09-6-2020, tại bãi giữ xe nhà bè L, xã L, thành phố V lực lượng chức năng bắt quả tang K đang tàng trữ trái phép chất ma túy, qua giám định có khối lượng 0,3345 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine và khối lượng 5,0942 gam là cần sa với mục đích để sử dụng.
Hành vi của bị cáo K đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ ma túy để sử dụng không những gây tác hại vô cùng nghiêm trọng đến sức khỏe của bị cáo mà còn là nguyên nhân phát sinh lây lan tệ nạn nghiện, hút, chích ma túy, nhiều tệ nạn xã hội khác và các căn bệnh thế kỷ, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Nhưng vì là con nghiện nên bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt phù hợp, đủ mức răn đe giáo dục bị cáo, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
[4.1] Tình tiết tăng nặng: Không có
[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về xử lý vật chứng trong vụ án:
Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã qua giám định số 267/GĐMT- PC09(Đ2) ngày 15 tháng 6 năm 2020 và 286/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 19 tháng 6 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là tang vật của vụ án.
Trả lại 01 điện thoại di dộng hiệu OPPO màu đen có số Imel 1 865222048631893; số Imel 2 865222048631885 cho bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội.
Đối với 01 xe mô tô BKS: 72C2-261.55 và số tiền 2.700.000đ (hai triệu bảy trăm ngàn đồng) Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bà Nguyễn Thị T là mẹ của bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Các vấn đề khác: Đối với hai người đàn ông đã bán ma túy cho K do chưa rõ lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
Bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng điểm i, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09-6-2020.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã qua giám định số 267/GĐMT- PC09(Đ2) ngày 15 tháng 6 năm 2020 và 286/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 19 tháng 6 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là tang vật của vụ án.
Trả lại 01 điện thoại di dộng hiệu OPPO màu đen có số Imel 1 865222048631893; số Imel 2 865222048631885 cho bị cáo.
Vật chứng nêu trên Chi cục Thị hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 12/BB.THA ngày 23-10-2020.
3. Về án phí : Bị cáo K phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng ) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án 237/2020/HS-ST ngày 27/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 237/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về