TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 236/2021/HS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 274/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 273/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T - sinh năm 1985 tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn 1, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá:
09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị P; bị cáo có vợ là Lê Thị N và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/3/2021 đến ngày 11/3/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21h ngày 06/3/2021, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô BKS 36B4- 67127 đi đến khu vực cổng trường Chu Văn An thuộc xã Q, TP. S, tỉnh Thanh Hóa gặp và mua được của một người nam giới tên Tuấn khoảng 30 tuổi 02 (hai) túi ma túy đá với giá 300.000 đồng. Mua được ma túy đá, T cất giấu 01 túi ma túy đá vào túi quần phía trước bên phải đang mặc và 01 túi T cất giấu vào túi áo khoác phía trước bên phải rồi đi về nhà. Đến khoảng 21h15' cùng ngày 06/3/2021, khi đến trước SN 235 đường C, thuộc thôn 4, phường Q, TP. T thì T bị tổ tuần tra phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thanh Hóa phát hiện bắt quả tang. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã thu giữ của T 02 túi nilon màu trắng, kích thước mỗi gói khoảng (1x1,2)cm, bên trong mỗi túi đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Tại chỗ T khai nhận đây là 02 (hai) gói ma túy đá T cất giấu với mục đích để sử dụng.
Kết luận giám định số 1021/PC09 ngày 11/3/2021, phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: chất rắn dạng tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,264g (không phẩy hai sáu tư gam) loại: Methamphetamine.
Về nguồn gốc số ma túy, do T không biết nhân thân, địa chỉ của người bán ma túy cho T ở đâu. Ngoài lời khai của T, cơ quan điều tra không có tài liệu, chứng cứ khác nên không có căn cứ để xác minh, xử lý Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE RSX, màu trắng đen BKS 36B4-67127 tạm giữ của Nguyễn Văn T. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Lê Thị N (vợ của T), sinh năm 1988, trú tại Thôn 1, phường Q, TP. T, tỉnh Thanh Hóa là chủ sở hữu hợp pháp để quản lý, sử dụng Vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa đã được chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T chờ xử lý theo quy định.
Cáo trạng số 159/Ctr-VKS-MT ngày 26/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo T từ 15 đến 18 tháng tù.
Về vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên:
Quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội:
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được cùng các tài liệu, chứng cứ khác phản ánh trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 21h15' ngày 06/3/2021 tổ công tác Công an phường Q, TP. T phối hợp cùng tổ tuần tra phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thanh Hóa làm nhiệm vụ tại trước số nhà 235 đường C, thuộc thôn 4, phường Q, TP. T phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ 02 (hai) túi Methamphetamine có tổng khối lượng 0,264g (không phẩy hai sáu bốn gam) với mục đích sử dụng.
Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS như Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Tệ nạn ma túy đang là hiểm họa cho toàn xã hội, là nguyên nhân làm suy thoái kinh tế, là một trong những tác nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS và làm gia tăng các loại tội phạm khác.
[3] Về căn cứ quyết định hình phạt đối với bị cáo:
Xét thấy tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nên cần phải xử lý nghiêm minh và áp dụng Điều 38 BLHS để cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Nên khi lượng hình cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
[4] Do bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng, không có tính chất vụ lợi nên không cần phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự, kèm chữ ký, chữ viết của Lê Minh Tiến, Hoàng Ngọc Toàn, Nguyễn Hoàng Đạt là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Do đó cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS để tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38;điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Xử phạt Nguyễn Văn T 17 (mười bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/3/2021 Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự, kèm chữ ký, chữ viết của Lê Minh Tiến, Hoàng Ngọc Toàn, Nguyễn Hoàng Đạt.
Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố T, theo biên bản giao nhận vật chứng số 191/THA ngày 23/6/2021 giữa Công an thành phố T với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 236/2021/HS-ST ngày 24/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 236/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về