Bản án 236/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 236/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 171/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2020; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1991 Địa chỉ: xóm 2, xã Ng V, huyện Ng L, Nghệ An. Có mặt

Bị đơn là: Anh Phan Văn H, sinh năm 1986 Địa chỉ: xóm 2, xã Nghi Văn, huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:

Trong đơn khởi kiện đề ngày 26 tháng 6 năm 2020, bản tự khai cũng như trong quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị S trình bày: Chị và anh Phan Văn H lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 06-02-2017 tại Ủy ban nhân dân xã Ng V, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên xẩy ra gây gỗ, cãi vã, xúc phạm lẫn nhau, anh H thường uổng rượu, đánh đập chị, không làm chủ bản thân, đã nhiều lần chị S cùng gia đình hai bên khuyên can nhưng anh Hi không từ bỏ rượu chè. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được. Nay, chị xác định không còn tình cảm với anh H nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phan Anh T, sinh ngày 10-04- 2018. Chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Chị S đang làm phục vụ quán ăn, lương mỗi tháng 5.000.000 đồng. Hiện nay con chung đang sống cùng anh H và bố mẹ đẻ của anh H ở Ng V nhưng đó là do anh H đưa cháu về và để con lại nhà anh H luôn không cho chị đưa về. Vì vậy, chị không có cách nào để đưa con đi cả, chị S có đến nhà nhưng đã bị anh H và gia đình anh H ngăn cản không cho gặp con. Do con chung đang dưới 36 tháng tuổi, cần sự chăm sóc của người mẹ nên chị S tha thiết yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được tiếp tục nuôi con chung để đảm bảo quyền lợi cho con dưới 36 tuổi. Chị không yêu cầu anh H phải cấp cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai cũng như tại phiên tòa anh Phan Văn H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị S lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 06-02-2017 tại Ủy ban nhân dân xã Ng V, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng xẩy ra gây gỗ, cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Nguyên nhân là do trong cuộc sống và mỗi quan hệ công việc anh có uống rượu, cũng có làn anh đánh chị S nhưng không phải anh hết thương yêu chị S mà do uống rượu vào anh không làm chủ được bản thân nên bất đồng trong quan điểm sống. Chị S bỏ về bên nhà mẹ đẻ của chị S cũng ở xã Ng V và cắt đứt liên lạc cũng như tình cảm vợ chồng với anh từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Nên anh xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị S đã không còn, nay chị Sao yêu cầu ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phan Anh T, sinh ngày 10-04- 2018. Anh H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Con chung hiện đang sinh sống cùng anh H và ông bà nội, anh H đang làm công ty sơn chống cháy tại H N, thu nhập mỗi tháng trên 15.000.000 đồng . Thời gian anh đi làm anh nhờ bố mẹ đẻ của anh chăm sóc cháu T mỗi tháng anh về thăm con một lần và gửi tiền về cho ông bà để nuôi cháu T. Vì vậy, anh có đủ khả năng nuôi con, không cần chị S cấp dưỡng nuôi con. Hơn nữa, chị S không có sự quan tâm đến cuộc sống của con nên anh H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung.

- Về tài sản chung: anh Phan Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết - Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Về việc giải quyết vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 56, điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Về quan hệ hôn nhân: Đè nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Nguyễn Thị S được ly hôn với anh Phan Văn H.

+ Về con chung: Do con chung dưới 36 tháng tuổi nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là Phan Anh T, sinh ngày 10-04-2018 cho chị Nguyễn Thị S được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh H vì chị S chưa có yêu cầu.

+ Về tài sản và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

+ Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Phan Văn H cư trú tại xã Ng V, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An. Nay, nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với bị đơn, theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị S và anh Phan văn H lấy nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 06-02-2017 tại Ủy ban nhân dân xã Ng V, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy, quan hệ hôn nhân đó là hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn, bị đơn và biên bản xác minh tại Hội liên hiệp phụ nữ xã Ng V, huyện Ng L, Nghệ An về tình trạng hôn nhân giữa chị S và anh H thì có cơ sở khẳng định: Chị S và anh H hiện không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, đã không chung sống với nhau, bỏ mặc nhau từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Trong quá trình chung sống giữa chị S và anh H phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên xẩy ra gây gỗ, cãi vã lẫn nhau. Như vậy, có thể khẳng định, tình trạng hôn nhân giữa chị S và anh H đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; xử cho chị S được ly hôn với anh H là phù hợp với pháp luật.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phan Anh T, sinh ngày 10- 04-2018. Chị S và anh H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục con chung, không bên nào yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, Nguyện vọng được trực tiếp nuỗi dưỡng nuôi con chung của chị S và anh H đều chính đáng, cả chị S và anh H đều có điều kiện kinh tế để nuôi con phát triển về mọi mặt. Song, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 thì con chung chưa đủ 36 tháng tuổi thì giao con cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục. Vì vậy, giao con chung cho chị Nguyễn Thị S trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Anh Phan Văn H được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở, chị S cùng các thành viên trong gia đình không được ngăn cản, hạn chế quyền thăm nom con chung của anh H.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị S và anh Phan Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1Điều 28, khoản 1 Điều 35,của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị S và anh Phan Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung là Phan Anh T, sinh ngày 10 tháng 4 năm 2018 cho chị Nguyễn Thị S trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Phan Văn H vì chị Sao chưa có yêu cầu.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Nếu anh H lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung thì chị Sao có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung. Chị S cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Nguyễn Thị S và anh Phan Văn H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị S phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0004883 ngày 26 tháng 6 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Lộc. Chị S đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Nguyên đơn và bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:236/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về