Bản án 236/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 236/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ.

Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 127/2020/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2020 và Thông báo đưa vụ án ra xét xử số 149/2020/TBXXST – HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự: Nguyên đơn: Chị Võ Ngọc Thùy D, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Khu vực B, phường L, quận M, TP. C.

(Có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Vũ L, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Ấp P1, xã H, huyện Đ, TP. C.

(Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Võ Ngọc Thùy D trình bày: Do được sự mai mối, chị Võ Ngọc Thùy D và anh Nguyễn Văn Vũ L được sự đồng ý của hai bên gia đình và tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Trung Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ vào ngày 22/6/2016. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Nhưng thời gian dài có nhiều mâu thuẫn xảy ra gay gắt, tính tình không hợp nhau, đời sống hôn nhân của vợ chồng bị khủng hoảng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân cách nay hơn 01 năm. Do thấy hôn nhân không hạnh phúc, nên chị D có đơn xin ly hôn với anh L.

Về con chung: Chị D và anh L không có con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/7/2020, anh Nguyễn Văn Vũ L trình bày: Do được sự mai mối, anh và chị D tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Trung Hưng, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ vào ngày 22/6/2016. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do chị D bỏ nhà đi chung sống với người đàn ông khác, nên tình cảm vợ chồng không còn, nên anh thống nhất thuận tình ly hôn với chị D. Quá trình chung sống, anh L và chị D không có con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ nhiều lần đối với anh L tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh L vẫn vắng mặt không lý do, nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Do đó, vụ án được đưa ra xét xử công khai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ trình bày ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký và nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định, bị đơn chưa thực hiện đúng quy định về việc có mặt khi được Tòa án triệu tập của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp ly hôn” là phù hợp; bị đơn có nơi cư trú tại huyện Cờ Đỏ nên Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Về nội dụng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Ngọc Thùy D, chị D được ly hôn với anh L; Các đương sự không có con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Ghi nhận lời khai của các đương sự là không có, nếu sau này phát sinh tranh chấp và có yêu cầu khởi kiện thì giải quyết thành vụ án khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Võ Ngọc Thùy D và anh Nguyễn Văn Vũ L, tiến tới hôn nhân có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Nay, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn chị D có đơn xin ly hôn với anh Giang. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bị đơn có nơi cư trú tại địa bàn huyện Cờ Đỏ, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ đối với anh L để tham gia phiên tòa, nhưng anh L vẫn vắng mặt lần thứ hai. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh L theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Ngọc Thùy D và anh Nguyễn Văn Vũ L, tiến tới hôn nhân có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Về nguyên nhân mâu thuẫn: Chị D cho rằng vợ chồng tính tình không hợp nhau, đời sống hôn nhân của vợ chồng bị khủng hoảng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân cách nay hơn 01 năm. Anh L cho rằng vào năm 2018, chị D tự ý bỏ nhà đi để sống chung với người đàn ông khác, nên tình cảm vợ chồng không còn, anh L cũng đồng ý ly hôn với chị D. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng anh L vẫn vắng mặt không lý do. Điều đó, chứng tỏ anh L không có thiện chí hàn gắn tình cảm, nên xác định mẫu thuẫn giữa chị D và anh L đã sâu sắc, trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích của hôn nhân là hạnh phúc không đạt được. Nên yêu cầu xin ly hôn của chị D có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Các đương sự không có con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Ghi nhận lời khai của các đương sự là không có, nếu sao này các đương sự phát sinh tranh chấp và có yêu cầu khởi kiện thì giải quyết thành vụ án khác.

[6] Về án phí: Chị D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng, theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 192; Điều 227; Điều 228; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Áp dụng: Các Điều 51; 56; 57 Luật hôn nhân và gia đình 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Ngọc Thùy D đối với anh Nguyễn Văn Vũ L.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Ngọc Thùy D được ly hôn với anh Nguyễn Văn Vũ L.

Về con chung: Các đương sự không có con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Ghi nhận lời khai của các đương sự là không có, nếu sau này các đương sự phát sinh tranh chấp và có yêu cầu khởi kiện thì giải quyết thành vụ án khác.

Về án phí: Chị Võ Ngọc Thùy D chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm; chuyển số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị D đã nộp theo biên lai số 013143 ngày 27/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ thành tiền án phí.

Về quyền kháng cáo: Chị Võ Ngọc Thùy D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn Vũ L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thựa hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:236/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về