Bản án 236/2020/DS-ST ngày 09/12/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 236/2020/DS-ST NGÀY 09/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Trong ngày 09 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 196/2020/TLST-DS ngày 01 tháng 10 năm 2020 về “tranh chấp H đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị Mỹ L, sinh năm 1982.

ĐKTT: khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Chỗ ở hiện nay: 176/1 ấp B, xã AN, huyện P, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1982, địa chỉ: Lê Lợi, phường 4, quận G, thành phố Hồ Chí Minh theo văn bản ủy quyền ngày 10/8/2020.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1979, cùng địa chỉ: ấp A, xã Đ, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Thái B, sinh năm 1977, địa chỉ: ấp B, xã A, huyện P, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1982, địa chỉ: Lê Lợi, phường 4, quận G, thành phố Hồ Chí Minh theo văn bản ủy quyền ngày 10/8/2020.

Chị N, ông H, bà L1 cùng có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng tại tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Phan Thị Mỹ L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thái B là chị Nguyễn Thị N trình bày:

Chị Phan Thị Mỹ L là chủ cửa hàng mua bán thuốc, thức ăn thủy sản B L. Vào đầu tháng 8/2018 ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 đến cửa hàng của chị L mua thuốc, thức ăn để nuôi tôm công nghiệp. Hai bên thỏa thuận chị L cung cấp thuốc, thức ăn theo yêu cầu của ông H và bà L1, thanh toán khi kết thúc vụ nuôi.

Chị L giao thuốc, thức ăn nuôi tôm cho ông H và bà L1 bắt đầu từ ngày 28/8/2018 đến ngày 16/7/2019 (cho hồ nuôi ở An Điền) và từ ngày 05/9/2018 đến ngày 26/3/2019 (cho hồ nuôi ở Mỹ An). Khi giao hàng thì ông H và bà L1, người đứng ao sẽ ký nhận vào hóa đơn, sau đó sẽ có bảng chi tiết công nợ mỗi bên giữ một bản để đối chiếu.

Trong quá trình mua bán ông H và bà L1 có thanh toán và cũng có nợ, đến khi kết thúc vụ nuôi không thanh toán, đến ngày 16/7/2019 ông H và bà L1 nợ tổng số tiền là 314.011.300 đồng (trong đó khu Mỹ An là 111.203.100 đồng, khu An Điền là 202.808.200 đồng). Đến nay ông H và bà L1 vẫn chưa trả nợ.

Thỏa thuận mua bán là nếu người mua trả dứt nợ thì sẽ được tính chiết khấu, khi hai bên tổng kết nợ chị L cũng cho thời hạn thánh toán trước 60 ngày kể từ ngày 04/10/2019 thì sẽ được tính chiết khấu nhưng ông H và bà L1 không thực hiện được.

Anh Nguyễn Thái B là chồng chị L có chung ý kiến và yêu cầu với chị L. Việc mua bán là kinh tế chung của hai vợ chồng của chị L và anh B.

Theo đơn khởi kiện chị L yêu cầu ông H và bà L1 trả số tiền lãi chậm trả tính từ ngày 17/7/2019 đến ngày 17/8/2020 là 13 tháng với lãi suất 0,83%/tháng là 33.881.819 đồng nhưng nay chị L rút yêu cầu khởi kiện đối với việc trả lãi chậm trả.

Tại tòa, chị Phan Thị Mỹ L yêu cầu khởi kiện là yêu cầu ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 có trách nhiệm liên đới trả cho chị L và anh B số tiền nợ mua thuốc, thức ăn nuôi tôm 314.011.300 đồng.

Ông H và bà L1 có yêu cầu trả dần chị L không đồng ý.

Theo bản tự khai và trong quá trình tố tụng tại tòa bị đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ông thừa nhận lời trình bày của chị N về việc giữa vợ chồng ông có mua thức ăn, thuốc thủy sản của đại lý B L để nuôi tôm phục vụ kinh tế gia đình, về thỏa thuận mua bán, các giấy tờ tài liệu mà chị L cung cấp là đúng. Cụ thể là việc mua bán từ năm 2018. Thỏa thuận mua bán là khi bán giao hàng ký hóa đơn, sau đó chị L lập công nợ mỗi bên giữ một bản, thỏa thuận thanh toán là khi kết thúc vụ nuôi. Thời gian đầu vợ chồng ông có thanh toán nhưng sau đó do nuôi tôm thua lỗ nên không có khả năng thanh toán, đến ngày 04/10/2019 hai bên chốt số nợ bằng bảng chi tiết công nợ là 314.011.300 đồng và chị L không bán hàng cho vợ chồng ông nữa.

Ông thừa nhận thỏa thuận về việc chiết khấu là người mua phải thanh toán đúng hạn. Khi hai bên chốt nợ chị L cho vợ chồng ông thời hạn thanh toán 60 ngày, nếu trả trong hạn này cũng được chiết khấu. Do vợ chồng ông không thanh toán đúng hạn nên không yêu cầu gì đối với việc chiết khấu.

Ông thừa nhận số nợ còn nợ chị L là 314.011.300 đồng và vợ chồng ông đồng ý liên đới trả số nợ này chị chị L. Do hoàn cảnh khó khăn nên xin trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng, nếu nuôi tôm có lời thì sẽ trả thêm.

Đối với việc chị L rút yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu vợ chồng ông trả lãi ông đồng ý.

Theo bản tự khai và trong quá trình tố tụng tại tòa bị đơn bà Nguyễn Thị L1 trình bày:

Bà có chung lời trình bày với chồng bà là ông Lê Văn Lạo. Bà thừa nhận vợ chồng bà có nợ tiền thức ăn, thuốc nuôi tôm của chị L là 314.011.300 đồng, đồng ý có trách nhiệm liên đới cùng với chồng bà là ông H trả cho chị L và anh B là 314.011.300 đồng, trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi thanh toán hết nợ, nếu làm ăn thuận lợi có tiền thì sẽ trả nợ thêm cho chị L.

Đối với việc chiết khấu bà thừa nhận do chưa thanh toán nợ đúng hạn nên không được hưởng chiết khấu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: nguyên đơn Phan Thị Mỹ L yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 trả tiền nợ do mua thức ăn, thuốc nuôi tôm nhưng không trả nên đây là “tranh chấp H đồng mua bán tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; bị đơn ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 có nơi cư trú tại 96/5 ấp A, xã Đ, huyện P, tỉnh Bến Tre; theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú.

[3] Nguyên đơn Phan Thị Mỹ L rút yêu cầu khởi kiện đối với việc yêu cầu ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 trả lãi chậm trả tính từ ngày 17/7/2019 đến ngày 17/8/2020 là 13 tháng với lãi suất 0,83%/tháng là 33.881.819 đồng. Việc rút yêu cầu này là tự nguyện và phù H với khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với yêu cầu trả lãi của chị L.

[4] Về nội dung: nguyên đơn Phan Thị Mỹ L, bị đơn ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 cùng thống nhất hai bên có xác lập và thực hiện H đồng mua bán thức ăn, thuốc thủy sản nuôi tôm từ năm 2018. H đồng mua bán được giao kết trên cơ sở tự nguyện và B đẳng, không ai bị lừa dối hoặc bị ép buộc; các bên đều có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự nên được xem là H đồng H pháp và công nhận theo quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự. Chị L với ông H và bà L1 cùng thống nhất số tiền nợ gốc mà ông H và bà L1 còn nợ chị L và anh B khi hai bên kết thúc việc mua bán là 314.011.300 đồng; ông H và bà L1 đã vi phạm thời hạn thanh toán. Xét thấy, do ông H bà L1 vi phạm nghĩa vụ thanh toán, tại tòa ông H và bà L1 đồng ý liên đới trả cho chị L và anh B số nợ 314.011.300 đồng nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ phù H với Điều 440 Bộ luật dân sự. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phan Thị Mỹ L, buộc bị đơn ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 có trách nhiệm liên đới trả cho chị Phan Thị Mỹ L và anh Nguyễn Thanh B 314.011.300 đồng.

[5] Ông H và bà L1 trình bày do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên yêu cầu được trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi thanh toán hết nợ. Xét thấy, ông H và bà L1 đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán và yêu cầu trả dần này không được chị L chấp nhận nên không chấp nhận yêu cầu trả dần của ông H và bà L1.

[6] Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, bị đơn không thuộc trường H được miễn nộp tiền án phí nên bị đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 430, 433, 440, 357, 468 Bộ luật dân sự 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện đối với việc nguyên đơn Phan Thị Mỹ L yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 có trách nhiệm liên đới trả số tiền lãi là 33.881.819 đồng.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phan Thị Mỹ L. Buộc ông ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 có trách nhiệm liên đới trả cho chị Phan Thị Mỹ L và anh Nguyễn Thái B 314.011.300 đồng (ba trăm mười bốn triệu không trăm mười một nghìn ba trăm đồng).

(Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị L1 có trách nhiệm liên đới chịu 15.700.500 đồng (mười lăm triệu bảy trăm nghìn năm trăm đồng).

Chị Phan Thị Mỹ L được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 8.697.000 đồng theo biên lai thu số 0003130 ngày 30/9/2020.

4. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

5. Trường H bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2020/DS-ST ngày 09/12/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:236/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về