Bản án 236/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 236/2019/HS-ST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 200/2019/TLST-HS ngày 11/7/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2019/QĐXXST-HS ngày 13/8/2019, đối với bị cáo:

Trần Hoàng A; sinh năm: 1978; tại: Hà Nội; hộ khẩu thường trú: 18B/45 đường x, phường y, Quận z, Thành phố Hồ Chí Mình; nơi cư trú: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn L; và bà: Nguyễn Thị Th; chưa có vợ con; tiền án: Ngày 11/11/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản trị giá 10.000.000 đồng), chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/12/2015, chưa đóng án phí hình sự sơ thẩm; tiền sự: Ngày 04/4/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, tái hòa nhập cộng đồng ngày 20/10/2017; bị bắt, tạm giam ngày: 19/3/2019. (Có mặt)

- Bị hại: anh Huỳnh Lê Khánh Tr, sinh năm 1994, địa chỉ: 45D đường x, khu phố y, phường z, quận t, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 22 giờ ngày 03/02/2019, Trần Hoàng A được một người bạn tên Tuấn (Không rõ lai lịch) gọi điện thoại rủ đến khu vực Bến xe Miền Đồng, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng ma túy, A đồng ý nên đón xe Grab bike (xe ôm công nghệ) đi từ Quận t, Thành phố Hồ Chí Minh về hướng Bến xe Miền Đông. Khi A đến nơi gọi điện thoại cho Tuấn thì Tuấn bảo đã sử dụng ma túy xong và đã đi về nên A đón Grab bike về lại Quận 9. Khoảng 02 giờ ngày 04/02/2019, khi Grab bike chở A đến trước hẻm số 636, đường x, khu phố y, phường z, quận Thủ Đức, A nhìn thấy có một xe mô tô hiệu Honda AirBlade màu trắng - đỏ - đen biển số 59X2-20891 chủ sở hữu là anh Huỳnh Lê Khánh Tr không có ai trông coi, nên nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô trên. A nói Grab bike dừng xe lại và trả tiền xe, A đi bộ một mình đến vị trí xe mô tô biển số 59X2-20891 thì nhìn thấy vẫn cắm chìa khóa trên xe, A ngồi lên xe, đề nổ máy chạy thoát về hướng Quận 8. Khi A đi đến đường Nguyễn Hữu Cảnh, quận Bình Thạnh thì dừng xe lại, mở cốp xe ra nhìn thấy có một ba lô bằng vải, bên trong ba lô có 1.100.000 đồng và một số giấy tờ (A không nhớ loại giấy tờ gì), A lấy 1.100.000 đồng bỏ vào túi quần, còn lại ba lô và giấy tờ thì vứt lại bên đường Nguyễn Hữu Cảnh. A tiếp tục điều khiển xe mô tô về hướng Quận 8 để mua ma túy sử dụng và tìm chỗ bán xe mô tô biển số 59X2-20891. Khi A chưa tìm được chỗ bán xe nên sử dụng làm phương tiện đi lại, đến khoảng 14 giờ ngày 18/3/2019, khi A đang điều khiển xe mô tô biển số 59X2-20891 tại phường T, quận Thủ Đức thì bị ông Huỳnh Văn H là cha ruột của anh Tr cùng với anh Trần Nguyên T là bạn của ông Hải phát hiện nên giữ A lại cùng xe mô tô biển số 59X2-20891 và giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức lập hồ sơ xử lý.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Trần Hoàng A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên (bút lục 52-60, 65,66). Anh Huỳnh Lê Khánh Tr khai ngoài mất xe mô tô biển số 59X2-20891, bên trong cốp xe còn có 01 máy vi tính xách tay hiệu Apple và số tiền 21.000.000 đồng. Đối với 01 máy vi tính xách tay hiệu Apple và số tiền 21.000.000 đồng A khai không thấy trong cốp xe, chỉ khai nhận có 1.100.000 đồng.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 480/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 25/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự, kết luận: 01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade màu trắng-đỏ-đen biển số 59X2-20891, trị giá 28.000.000 đồng; 01 ba lô bằng vải, trị giá 50.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Air Blade màu trắng-đỏ-đen biển số 59X2- 208.91, số máy: 27E-0976277, số khung BY-844800 (thu giữ của Trần Hoàng A).

- 01 chìa khóa xe mô tô biển số 59X2-208.91 (thu giữ của Trần Hoàng A).

Trách nhiệm dân sự: 01 xe mô tô hiệu Honda Air Blade màu trắng-đỏ-đen biển số 59X2-208.91, 01 chìa khóa xe mô tô biển số 59X2-208.91 đã trả lại cho anh Huỳnh Lê Khánh Tr, anh Tr không có yêu cầu gì thêm (bút lục 61, 82).

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Hoàng A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

Bản Cáo trạng số 225/CT-VKSTĐ ngày 08/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Trần Hoàng A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 của Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, cùng tình tiết tăng nặng tái phạm và các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi, để xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù, phần dân sự đã giải quyết xong.

Bị cáo A không tranh luận hoặc bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Hoàng A phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại anh Huỳnh Lê Khánh Tr. Tài sản chiếm đoạt là 01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade màu trắng-đỏ-đen biển số 59X2-20891, trị giá 28.000.000 đồng; 01 ba lô bằng vải, trị giá 50.000 đồng và số tiền 1.100.000 đồng, tổng cộng 29.600.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Trần Hoàng A đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định, trừng trị tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Về nhân thân, bị cáo có 01 tiền án về “Tội trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án, thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; ngoài ra bị cáo còn có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi, bị cáo thuộc gia đình có công với Cách mạng, cha ruột được tặng thưởng nhiều Huy chương, Huân chương, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Bị hại anh Huỳnh Lê Khánh Tr đã nhận lại chiếc xe, không có yêu cầu bồi thường gì. Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Trần Hoàng A phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, Xử phạt: bị cáo Trần Hoàng A 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/3/2019.

- Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Trần Hoàng A chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại vắng mặt, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2019/HS-ST ngày 28/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:236/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về