Bản án 236/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 236/2019/HS-ST NGÀY 14/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 238/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 248/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Hồ Vũ H, sinh năm 1994 tại tỉnh Bạc Liêu; thường trú: Ấp MH, xã Ph Th T B, huyện Ph L, tỉnh Bạc Liêu; chỗ ở: Số 128/4 khu phố B Đ 3, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Hồ Quốc Kh, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1976; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 2011; tiền án, tiền án: Không; bị bắt giam từ ngày 04/5/2019 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Anh Lưu Văn Ngh, sinh năm 1990; thường trú: Ấp Gi Ph, xã T H Đ, huyện C N, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Đường số S, khu phố B, phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Đỗ Tuy Ph, sinh năm 1994; thường trú: Xóm M Tr, xã Ph S, huyện T Ph, tỉnh Bình Định, vắng mặt.

2. Chị Lê Thị T, sinh năm 1986; thường trú: Số MH, phường H B Ph, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

3. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1959; thường trú: Số 708, đường Kh V C, phường L Đ, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

- Người chứng kiến:

1. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1979; vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 2000; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Vũ H và Lưu Văn Ngh có mối quan hệ quen biết nhau qua mạng xã hội Zalo. Khoảng 18 giờ ngày 22/12/2018, sau khi ăn uống, H và Nghệ đến nhà nghỉ “H M” thuộc khu phố B Đ 3, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thuê phòng 102 để nghỉ. Lợi dụng lúc anh Lưu Văn Ngh vào phòng tắm, Hồ Vũ H mở bóp lấy chứng minh nhân dân, giấy đăng ký xe mô tô biển số 69E1-340.08 mang tên Lưu Văn Ngh, rồi lấy chìa khóa xe của anh Ngh xuống sảnh nhà nghỉ bật mở khóa xe, xe báo động thì H tắt báo động và điều khiển mô tô hiệu Honda AirBlade, biển số 69E1-340.08 của anh Ngh chạy ra ngoài, sau đó H mang xe đến tiệm cầm đồ Tr T, gặp quản lý của tiệm là bà Đỗ Tuy Ph cầm xe với giá 20.000.000 đồng. Anh Ngh phát hiện xe bị chiếm đoạt khi nghe tiếng báo động nhưng xuống sảnh thì H đã chạy thoát, sau đó anh Lưu Văn Ngh đến Công an phường A B trình báo vụ việc. Ngày 23/02/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra Lệnh bắt bị can đối với Hồ Vũ H. Đến ngày 04/5/2019, Hồ Vũ H bị bắt và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số: 01/BB.ĐG ngày 11/01/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Honda AirBlade, biển số 69E1-340.08 trị giá 29.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản số: 01/BB.ĐG ngày 11/01/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đối với tiệm cầm đồ Triệu Tín do bà Lê Thị T thuê mặt bằng và nhờ ông Nguyễn Văn V đứng tên kinh doanh cầm đồ, bà T giao cho bà Đỗ Tuy Ph làm quản lý. Ngày 23/12/2019, bà Ph có làm thủ tục cầm xe mô tô hiệu mô tô hiệu Honda AirBlade, biển số 69E1-340.08 giá 20.000.000 đồng có kèm chứng minh nhân dân và giấy đăng ký xe mang tên Huỳnh Văn Ngh. Sau đó, đã quá thời hạn cầm cố nên đã chiếc xe cho người khác, không rõ nhân thân, lai lịch nên không thu hồi được. Việc Hồ Vũ H cầm cố xe mô tô hiệu Honda AirBlade, biển số 69E1-340.08 bà T, bà Ph, ông V không biết là tài sản do H phạm tội mà có nên không đề cập xử lý.

Đối với việc anh Lưu Văn Ngh trình báo có mất 01 điện thoại di động hiệu Oppo A5F3 nhưng H không thừa nhận, không đủ chứng cứ xử lý H về việc trộm cắp tài sản của anh Ngh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An không đề cập xử lý.

Tại Cáo trạng số 261/CT-VKS ngày 18 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Hồ Vũ H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Hồ Vũ H về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173;điểm b, i, s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Hồ Vũ H từ 01 năm đến 02 năm tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Đ là mẹ ruột của Hồ Vũ H thỏa thuận bồi thường cho bị hại Lưu Văn Ngh 20.000.000 đồng, bị hại đồng ý nhận số tiền trên và không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và trách nhiệm dân sự đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Khoảng 18 giờ ngày 22/12/2018, tại nhà nghỉ “H M” thuộc khu phố B Đ 3, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, lợi dụng sơ hở, thiếu cảnh giác của bị hại Lưu Văn Ngh, bị cáo Hồ Vũ H đã lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Honda AirBlade, biển số 69E1-340.08 có trị giá 29.000.000 đồng.

[2] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Hồ Vũ H đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, trị giá 29.000.000 đồng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 261/CT-VKS ngày 18 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Hồ Vũ H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và lao động nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo muốn kiếm tiền nhanh chóng để phục vụ nhu cầu của bản thân mà bị cáo cố tình chiếm đoạt tài sản của bị hại đồng thời tình hình trộm cắp trên địa bàn thị xã Dĩ An diễn ra hết sức tinh vi, phức tạp. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Đ là mẹ ruột của Hồ Vũ H thỏa thuận bồi thường cho bị hại Lưu Văn Ngh 20.000.000 đồng, bị hại đồng ý nhận số tiền trên và không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[10] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Vũ H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Hồ Vũ H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 04/5/2019.

2. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Hồ Vũ H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2019/HS-ST ngày 14/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:236/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về