Bản án 236/2018/HNGĐ-ST ngày 05/10/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 236/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/10/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 05 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 697/2018/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 263/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 140/2018/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà H, sinh năm: 1978

Địa chỉ: Ấp Z, xã X, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Ông T, sinh năm: 1968.

Địa chỉ: Ấp Z, xã X, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

( Bà H xin vắng mặt; Ông T vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 15/6/2018 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết nguyên đơn bà H trình bày: Bà H và ông T chung sống với nhau vào năm 1997, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất hòa trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cải vả, cuộc sống chung không phù hợp và ông T đã bỏ đi từ đó đến nay. Nay bà H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn ông T.

Về con chung: Bà H khai, vợ chồng chung sống có 01 con chung tên S, sinh ngày 8/8/1999. Khi ly hôn, con chung đã trưởng thành nên bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với ông T, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông T không đến Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An làm việc hoặc phản hồi ý kiến của ông Huy về việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà căn cứ các kết quả thẩm tra, xét hỏi tại phiên Toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp là hôn nhân gia đình; Bị đơn ông T có hộ khẩu thường trú tại ấp Z, xã X, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An.

[1.2] Về tố tụng: Nguyên đơn bà H xin vắng mặt và bị đơn ông T vắng mặt không lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của BLTTDS năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà H và ông T.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông T chung sống với nhau vào năm 1997, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông T là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà H và ông T chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất hòa trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cải vả, cuộc sống chung không phù hợp và ông T đã bỏ đi từ đó đến nay nên bà H tha thiết xin được ly hôn với ông T. Ngược lại, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình vắng mặt không đến Tòa án dự hòa giải đoàn tụ cũng như không tham dự phiên tòa. Từ đó, Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn gia đình giữa bà H và ông T đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không còn đạt được và cuộc sống chung vợ chồng không thể kéo dài. Vì vậy, bà H yêu cầu được xin ly hôn với anh T là phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Bà H khai, vợ chồng chung sống có 01 con chung tên S, sinh ngày 8/8/1999. Khi ly hôn, con chung đã trưởng thành nên bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngược lại, anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[2.3] Về tài sản chung: Bà H khai, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét. Ngược lại, ông T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[2.4] Về nợ chung: Bà H khai, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét. Ngược lại, ông T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[3] Về án phí: Bà H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H xin ly hôn với ông T.

Về quan hệ hôn nhân: Bà H được ly hôn với ông T.

Về án phí: Bà H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sung sơ thẩm công quỹ Nhà nước, được khấu trừ số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà đã nộp theo biên lai số 2646 ngày 19 tháng 6 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hoà sang án phí để thi hành.

Án này là sơ thẩm, bà H và ông T vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 236/2018/HNGĐ-ST ngày 05/10/2018 về ly hôn

Số hiệu:236/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về