Bản án 235/2021/HS-ST ngày 24/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 235/2021/HS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 255/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 168/2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng T - sinh năm 1989 tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: Phố TL, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá:

12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng T và bà Hoàng Thị O; bị cáo có vợ là Hoàng Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: - Năm 2006 bị Công an phường Lam Sơn xử phạt hành chính về hành vi "Trộm cắp tài sản"; năm 2009 bị TAND TP. T xử phạt 6 tháng cải tạo không giam giữ về tội "Đánh bạc"; năm 2011 bị TAND huyện QX xử phạt 07 năm tù giam về tội "Cướp tài sản", ra trại ngày 05/01/2018. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: anh Bùi Quốc H - sinh năm 1984 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tiểu khu 2, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng 00h30' ngày 09/02/2021 Nguyễn Trọng T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Click màu trắng đen, BKS: 36B4-407.68 đến Bệnh viện Nhi Thanh Hóa để trộm cắp tài sản. Khi T đi đến phòng 10.01 tầng 10 nhà D phát hiện cửa phòng không khóa, mọi người ngủ say nên T lẻn vào phòng lấy trộm 03 điện thoại đang để ở đầu giường của anh Bùi Quốc H - sinh năm 1984, trú tại Tiểu khu 2, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa gồm 01 điện thoại Iphone 6 Plus màu bạc, 01 điện thoại Oppo A57 màu vàng và 01 điện thoại Oppo F1S màu đồng rồi nhanh chóng bỏ vào túi rời khỏi hiện trường. Trên đường về nhà, T kiểm tra thấy 03 chiếc điện thoại trên đều bị khóa bằng mật khẩu sợ mang đi bán sẽ bị phát hiện nên T tắt máy và tháo sim 03 chiếc điện thoại trên ra vứt dọc đường rồi đem điện thoại về nhà cất giấu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 19/KL-HĐĐGTS ngày 26/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự định giá kết luận:

- 01 điện thoại Iphone 6plus màu bạc 16G, đã qua sử dụng trị giá 1.500.000đ;

- 01 điện thoại Oppo A57 màu vàng đã qua sử dụng trị giá 1.100.000đ;

- 01 điện thoại Oppo F1S, đã qua sử dụng trị giá 700.000đ. Tổng trị giá tài sản: 3.300.000 đồng Ngày 02/3/2021 Nguyễn Trọng T đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa đầu thú về hành vi phạm tội của mình và giao nộp tang vật.

Cơ quan CSĐT đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại 03 chiếc điện thoại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Bùi Quốc H, anh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về phần bồi thường dân sự.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Click màu trắng đen, BKS: 36B4-407.68, quá trình điều tra xác định xe máy trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh Nguyễn Trọng B - sinh năm 1996, trú tại phố TL, phường Q, TP. T (là em trai của T). Anh B cho T mượn xe để đi, không biết việc T sử dụng xe để đi trộm cắp nên Cơ quan CSĐT đã trả lại chiếc xe máy cho anh B.

Cáo trạng số 146/Ctr-VKS ngày 17/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng T về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo T từ 07 đến 09 tháng tù.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên:

Quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được cùng các tài liệu, chứng cứ khác phản ánh trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 0h30' ngày 09/02/2021 T đột nhập vào phòng 10.01 tầng 10 nhà D, Bệnh viện Nhi Thanh Hóa trộm cắp 01 điện thoại Iphone 6 Plus màu bạc trị giá 1.500.000 đồng, 01 điện thoại Oppo A57 màu vàng trị giá 1.100.000đ và 01 điện thoại Oppo F1S màu đồng trị giá 700.000đ của anh Bùi Quốc H. Tổng giá trị tài sản T trộm cắp của H là 3.300.000đ.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác, có đủ dấu hiệu cấu thành tội "Trộm cắp tài sản", tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật

[3] Về căn cứ quyết định hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản để lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện tính liều lĩnh, không những thế còn ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an trên địa bàn. Bị cáo có nhân thân xấu, từng bị Tòa án xét xử về tội xâm phạm sở hữu. Do đó xét thấy cần phải xử lý nghiêm và áp dụng Điều 38 BLHS để cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo đầu thú, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có điều kiện, hoàn cảnh khó khăn và hiện là lao động chính trong gia đình. Do đó khi lượng hình cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, để bị cáo có điều kiện cải tạo, sớm trở về với đời sống xã hội, đồng thời cũng thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Bị hại là anh Bùi Quốc H đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu đề nghị gì về bồi thường dân sự vì vậy không xem xét về vấn đề bồi thường dân sự đối với bị cáo T.

[5] Về vật chứng: - 01 điện thoại Iphone 6plus màu bạc 16G, 01 điện thoại Oppo A57 màu vàng và 01 điện thoại Oppo F1S, đã qua sử dụng đã được trả lại cho chủ sở hữu nên không xem xét để xử lý thêm.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của BLHS;

Khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt Nguyễn Trọng T 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 235/2021/HS-ST ngày 24/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:235/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về