Bản án 233/2019/HSPT ngày 09/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 233/2019/HSPT NGÀY 09/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 192/2019/TLPT-HS ngày 10 tháng 05 năm 2019 đối với các bị cáo Hoàng Thị Nhã P, Phan Lê Ngọc H và bị cáo Bùi Duy P1; do có kháng cáo của các bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Hoàng Thị Nhã P, sinh năm 1991, tại Quảng Trị; nơi ĐKHKTT: Thôn H5, xã H6, huyện H7, tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Không ổn định; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng D1, sinh năm 1954 và bà Phan Thị S, sinh năm 1956; có 02 con: Hoàng Thị Ngọc Tr (đã chết) và Hoàng Anh T3, sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không có. Bị tạm giữ từ ngày 25/7/2018 đến ngày 02/8/2018 và chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị đến nay; có mặt.

2. Phan Lê Ngọc H, sinh năm 1998, tại Quảng Trị; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn H2, xã T4, huyện T1, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan H3, sinh năm 1961 và bà Lê Thị H4, sinh năm 1959; chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

3 . Bùi Duy P1, sinh năm 1993, tại Quảng Trị; nơi ĐKHKTT và chỗ ở:Thôn H2, xã T4, huyện T1, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi D2, sinh năm 1971 và bà Lê Thị Th, sinh năm 1969; có vợ Nguyễn Thị Ngọc B1, có 02 con: lớn 02 tuổi, nhỏ 04 tháng. Tiền án: Không có. Tiền sự: Ngày 09/01/2018, bị Công an huyện T1 xử phạt 500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 10/QĐ-XPHC, đã thi hành. Bị bắt tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Trị từ ngày 24/8/2018 đến nay; có mặt.

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Hoàng Thị Nhã P theo yêu cầu của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:

Luật sư Mai Thị Tuyết N - Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Trị; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 05 bị cáo khác không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập tham gia phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 24/7/2018, Huỳnh T2 đến nhà nghỉ 111, tại thôn C, xã T, huyện T1 gặp Hoàng Thị Nhã P mua sáu viên ma túy tổng hợp. Khi vừa ra khỏi nhà nghỉ thì bị tổ công tác Công an huyện T1 bắt quả tang đang tàng trữ 06 viên ma túy tổng hợp. Sau khi bắt quả tang Huỳnh T2, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T1 đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Thị Nhã P ở phòng 204 nhà nghỉ 111 tại thôn C, xã T, huyện T1. Quá trình khám xét đã phát hiện và thu giữ 445 viên ma túy tổng họp. Cùng ngày, Công an huyện T1 đã tiến hành kiểm tra hành chính đối với phòng 203 và 205 nhà nghỉ 111; kiểm tra tại phòng 203 đã phát hiện Võ Đức Đại Đ, Bùi Duy P1 và Phan Lê Ngọc H đang tàng trữ 02 viên ma túy tổng hợp, kiểm tra tại phòng 205 đã phát hiện Nguyễn Phước H1, Nguyễn Hữu V và Đoàn Minh D đang tàng trữ 04 viên ma túy tổng hợp.

Qua điều tra các bị can đã khai nhận: Từ đầu tháng 7 năm 2018, Hoàng Thị Nhã P đã nhiều lần mua ma túy tổng hợp của Trần Công K - sinh năm 1998, trú tại phường Y, thành phố Đ1 (theo lời khai của bị cáo P) với số lượng mỗi lần từ 100 đến 300 viên để sử dụng và bán lại cho người khác. Trong thời gian từ đầu tháng 7 năm 2018 đến ngày 24 tháng 7 năm 2018, bị cáo Hoàng Thị Nhã P đã nhiều lần bán cho Huỳnh T2, Đoàn Minh D, Võ Đức Đại Đ và nhiều người khác. Cụ thể có những lần như sau:

Khong 0 giờ 30 ngày 24/7/2018, Huỳnh T2 đến nhà nghỉ 111, thuộc thôn C, xã T, huyện T1, gặp Hoàng Thị Nhã P mua 06 viên ma túy tổng họp với giá 600.000 đồng đưa về sử dụng. Đến 20 giờ cùng ngày, T2 quay lại nhà nghỉ 111 mua tiếp 06 viên ma túy tổng hợp, khi vừa đi ra khỏi nhà nghỉ 111 thì bị bắt quả tang.

Ngày 24/7/2018, Võ Đức Đại Đ rủ Bùi Duy P1 và Phan Lê Ngọc H góp tiền mua ma túy để sử dụng. P1 và H đồng ý, H đưa cho Đ 250.000 đồng, P1 đưa cho Đ 200.000 đồng và Đ bỏ vào 200.000 đồng để mua ma túy và thuê nhà nghỉ. Khoảng 19 giờ 45 cùng ngày Đ, H, P1 đến nhà Nghỉ 111 thuê phòng 203. Tại đây, Đ đi sang phòng 204 mua của P 04 viên ma túy tổng hợp với giá 500.000 đồng đưa về phòng 203 để sử dụng. Đ, H, P1 lấy 02 viên ra sử dụng hết còn 02 viên để trên giường thì bị Công an huyện T1 phát hiện và thu giữ.

Khong 01 giờ ngày 24/7/2018, Nguyễn Hữu V, Đoàn Minh D cùng với Nguyễn Phước H1 đến nhà nghỉ 111 thuê phòng 205 để sử dụng ma túy. Sau khi thuê phòng, V gọi điện thoại cho Hoàng Thị Nhã P hỏi mua 04 viên ma túy rồi bảo D sang phòng 204 mua ma túy, D qua phòng 204 mua của P 04 viên ma túy với giá 400.000 đồng đưa về phòng 205 cùng với V và H1 sử dụng hết. Đến 17 giờ 30 cùng ngày D, V và H1 thống nhất với nhau V sẽ đưa cho D 600.000 đồng để mua ma túy để cùng nhau sử dụng sau này D và H1 sẽ trả tiền lại cho V. D lấy 600.000 đồng từ V đi sang phòng 204 mua của P 06 viên ma túy tổng hợp đưa về phòng 205 cùng với V và H1 sử dụng hết 02 viên còn 04 viên đang cất giấu trong phòng 205 thì bị Công an huyện T1 phát hiện và thu giữ.

Quá trình điều tra, Trần Công K không thừa nhận đã bán ma túy cho Hoàng Thị Nhã P. Cơ quan điều tra đã tiến hành nhiều biện pháp điều tra, xác minh nhưng chưa đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với K.

Tại Bản kết luận giám định số 469/KLGĐ ngày 31/7/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 06 viên nén màu hồng trong gói MI gửi giám định có khối lượng 0,5544g, là ma túy loại methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Bản kết luận giám định số 470/KLGĐ, ngày 31/7/2018 của Phòng Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 445 viên nén màu hồng, màu xanh trong gói M2 gửi giám định có khối lượng 41,5588g, là ma túy loại methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Bản kết luận giám định số 471/KLGĐ, ngày 31/7/2018 của Phòng Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 04 viên nén màu hồng trong gói M3 gửi giám định có khối lượng 0,3737g, là ma túy loại methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/ND-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Bản kết luận giám định số 472/KLGĐ, ngày 31/7/2018 của Phòng Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 02 viên nén màu hồng trong gói M4 gửi giám định có khối lượng 0,1888g, là ma túy loại methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/ND-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Ti Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2019/HS-ST ngày 26 tháng 03 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị Nhã P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, các bị cáo Bùi Duy P1, Phan Lê Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt:

- Bị cáo Hoàng Thị Nhã P 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/7/2018.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt:

- Bị cáo Bùi Duy P1 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 24/8/2018.

- Bị cáo Phan Lê Ngọc H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với 05 bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Trong thời hạn luật định, các bị cáo Hoàng Thị Nhã P, Phan Lê Ngọc H, Bùi Duy P1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Thị Nhã P giữ nguyên nội dung kháng cáo; các bị cáo Phan Lê Ngọc H, Bùi Duy P1 rút kháng cáo; Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị Nhã P, giữ nguyên bản án sơ thẩm; đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo Phan Lê Ngọc H, Bùi Duy P1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại nên hành vi, quyết định tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Bùi Duy P1, Phan Lê Ngọc H rút kháng cáo, Hội đồng xét xử xét thấy, việc rút kháng cáo của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc nên căn cứ vào khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm.

[3] Về tội phạm: Lời khai của các bị cáo Hoàng Thị Nhã P, Bùi Duy P1, Phan Lê Ngọc H tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo P nhiều lần thực hiện hành vi mua ma túy loại Methamphetamine để bán lại cho người khác nhằm hưởng lợi cho đến khi bị bắt quả tang với khối lượng ma túy bị thu giữ trên 30 gam nhưng dưới 100 gam nên phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự; các bị cáo Bùi Duy P1 và Phan Lê Ngọc H là những người mua ma túy loại Methamphetamine của bị cáo P để sử dụng với khối lượng bị thu giữ là 0,1888 gam nên phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội danh, khung hình phạt tương ứng là hoàn toàn đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng Thị Nhã P thì thấy rằng: Vì mục đích tư lợi bất chính, bị cáo đã nhiều lần mua ma túy để bán cho người khác nhằm hưởng lợi, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước mà còn gây nhiều hệ lụy xấu cho xã hội, là tác nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác nên cần phải xử lý nghiêm khắc. Bị cáo phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, quy định khung hình phạt từ 15 năm đến 20 năm. Mặt khác, bị cáo nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy cho nhiều người, tạo điều kiện cho loại hành vi sử dụng trái phép chất ma túy phát triển, làm ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy, lẽ ra cần phải xử phạt thật nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tuyên phạt bị cáo mức án khởi điểm của khung hình phạt là đã khoan hồng cho bị cáo. Do đó, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng mức án nặng là không có căn cứ chấp nhận.

[5]. Vì kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Hoàng Thị Nhã P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 348; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Bùi Duy P1, Phan Lê Ngọc H.

2. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng Thị Nhã P.

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt:

Bị cáo Hoàng Thị Nhã P 15 (mười lăm) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” , thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/7/2018.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Các bị cáo Bùi Duy P1, Phan Lê Ngọc H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Buộc bị cáo Hoàng Thị Nhã P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 233/2019/HSPT ngày 09/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:233/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về