Bản án 232/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 232/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 227/2020/TLST- HS ngày 27 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 238/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Văn S, sinh năm 1983; nơi sinh: Bắc Giang; hộ khẩu thường trú: Thôn Đồng X, xã Đông H, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi A L, bà Hồ Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: ngày 13/3/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án hình sự số 11/2019/HS-ST; bị cáo tại ngoại; có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị hại: Công ty TNHH đồ gỗ P; địa chỉ: Khu phố Bình Khánh, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp pháp: Ông Wu Pai S, chức vụ: Tổng Giám đốc; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn S là công nhân lái xe nâng làm việc tại Công ty TNHH đồ gỗ P (Sau đây gọi tắt là Công ty P), trụ sở tại ấp 1, xã Khánh Bình, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (nay là khu phố Bình Khánh, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương), khi làm việc tại Công ty P, S khai tên Bùi Văn. Trong quá trình làm việc Bùi Văn S nhìn thấy trong nhà kho của Công ty P có 01 cuộn dây điện dạng cáp, loại 240mm x 3c, hiệu TAYACU/PVC/DSTAL/PVC nên nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài.

Đến khoảng 14 giờ ngày 31/8/2008, Phạm Đình H là tài xế cùng với Nguyễn Văn T là phụ xe điều khiển xe ô tô tải biển số 61H – 2029 đi từ Công ty TNHH H đến Công ty P để chở hàng là ván ép. Khi H và T điều khiển xe đến thì S điều khiển xe nâng, nâng 03 kiện hàng là ván ép lên xe 61H – 2029. Sau đó, S nói cho H, T biết bên trong kho của Công ty P có 01 cuộc dây điện dạng cáp và rủ H, T cùng trộm bán lấy tiền, nghe S rủ thì H và T đồng ý. Sau khi bàn bạc thống nhất, S điều khiển xe nâng, nâng cuộn dây điện dạng cáp từ trong kho Công ty P lên xe 61H – 2029, còn H và T lên xe kéo bạt che lại rồi điều khiển xe 61H – 2029 rời khỏi Công ty P. Sau đó, S cùng với H, T đem cuộn dây điện trộm được tại Công ty P đem bán được số tiền 10.000.000 đồng, S đưa cho H 2.500.000 đồng, T 1.000.000 đồng.

Sau khi S cùng H, T trộm cắp 01 cuộn dây điện dạng cáp đem bán thì Công ty P phát hiện và trình báo sự việc đến Công an phường Khánh Bình. Còn S sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì xin nghỉ việc tại Công ty, đến ngày 21/10/2008 khi S xin vào làm việc lại thì Công ty P đã giao S cho Công an phường Khánh Bình thụ lý giải quyết.

Sau khi tiếp nhận, Công an phường Khánh Bình tiến hành lập hồ sơ và chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thụ lý theo thẩm quyền.

Tại công văn số 105 ngày 30/10/2008 của Hội đồng định giá tài sản thuộc UBND thị xã Tân Uyên kết luận: Giá trị 01 cuộn dây điện mà Bùi Văn S cùng đồng phạm chiếm đoạt là 131.223.500 đồng.

Quá trình điều tra trước đây Bùi Văn S khai tên Bùi Văn M (sinh năm 1989, HKTT: Thôn Đồng Xuân, xã Đồng Hưng, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang), Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Uyên (nay là thị xã Tân Uyên) không thu thập được tài liệu, chứng cứ chứng minh tên thật của bị cáo là Bùi Văn S. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 11/6/2009 bị cáo Bùi Văn S tiếp tục khai về tên, tuổi, nhân thân lai lịch phù hợp với tài liệu điều tra do đó Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên (nay là thị xã Tân Uyên) xét xử bị cáo và ban hành Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2009/HSST xác định tên, tuổi bị cáo là Bùi Văn M, sinh năm 1989, quyết định của Bản án đối với Bùi Văn M như sau:

- Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn M 36 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/11/2008.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 606, 608 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Bùi Văn M liên đới bồi thường cho Công ty P số tiền 80.179.715 đồng.

- Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Bùi Văn M phải chịu 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và liên đới chịu 4.008.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Sau khi Bản án có hiệu lực, Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên (nay là thị xã Tân Uyên) ban hành Quyết định thi hành án số 130 ngày 16/7/2009, sau đó Bùi Văn M chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Tống Lê Chân, đến ngày 03/7/2011 chấp hành xong hình phạt (được giảm án 04 tháng); về án phí sơ thẩm Bùi Văn M đã chấp hành xong ngày 01/02/2010; về trách nhiệm dân sự Bùi Văn M chưa thực hiện bồi thường cho bị hại.

Ngày 29/8/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị tái thẩm số 19/QĐ-VC3-V1 về việc kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2009/HSST ngày 11/6/2009 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử tái thẩm theo hướng hủy một phần Bản án nêu trên về phần trách nhiệm hình sự đối với Bùi Văn M để điều tra, truy tố, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Lý do kháng nghị: Cơ quan tiến hành tố tụng của thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xác định sai tên, tuổi của người bị kết án.

Ngày 28/10/2019, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa tái thẩm xét xử vụ án theo hướng:

- Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

- Hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2009/HSST ngày 11/6/2009 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đối với phần liên quan đến Bùi Văn M.

- Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

Ngày 17/02/2020, sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát nhân dân Cấp Cao tại thành phố Hồ Chí Minh, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên để thụ lý điều tra lại theo quy định. Qúa trình điều tra lại, Bùi Văn S khai nhận: Tên thật của bị cáo là Bùi Văn S, sinh năm 1983, khi làm việc tại Công ty P khai tên Bùi Văn M với mục đích che giấu thân phận, trốn tránh trách nhiệm vì ngày 12/02/2008 Bùi Văn S đã thực hiện hiện hành vi trộm cắp tài sản tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lục Ngạn khởi tố và truy nã; Bùi Văn M, sinh năm 1989 không phải là tên thật của bị cáo mà là tên của một người em ruột của bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Bùi Văn S như Cáo trạng số 227/CT-VKSTU ngày 26/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, đề nghị tuyên bố bị cáo Bùi Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm; áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo và xử phạt bị cáo mức án 03 năm đến 03 năm 6 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng khác không khiếu nại gì đối với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Bị cáo Bùi Văn S có đơn xin xét xử vắng mặt, tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt, xét thấy bị cáo xin vắng mặt vì lý do khó khăn không có điều kiện đến Tòa án, quá trình điều tra đã thu thập đầy đủ lời khai của người đại diện hợp pháp của bị hại, việc vắng mặt của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không trở ngại đến việc xét xử. Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 290 và Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại.

[3] Quá trình điều tra, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2009/HSST ngày 11/6/2009 của Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã xét xử, bị cáo xác định lại tên, tuổi đúng của mình là Bùi Văn S, sinh năm 1983. Các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra đã tiến hành thu thập được đủ cơ sở xác định tên, tuổi đúng của bị cáo là Bùi Văn S, sinh năm 1983; hộ khẩu thường trú: Thôn Đồng Xung, xã Đông Hưng, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Do đó có cơ sở xác định, ngày 31/8/2008, tại Công ty TNHH đồ gỗ P thuộc ấp 1, xã Khánh Bình, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (nay là khu phố Bình Khánh, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương), Bùi Văn S và đồng phạm có hành vi lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 cuộn dây điện dạng cáp loại 240mm2 x 3c hiệu TAYACU/PVC/DSTAL/PVC, tại thời điểm chiếm đoạt tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 131.223.500 đồng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Cáo trạng truy tố cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Quá trình điều tra, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải, nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Căn cứ vào nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét mức hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt 36 tháng tù của Bản án 55/2009/HSST ngày 11/6/2009 (được giảm án 04 tháng), được xem xét khấu trừ khi quyết định hình phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt:

Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/11/2008 (Bị cáo đã chấp hành xong tại trại giam Tống Lê Chân - Bộ Công an).

2. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, được khấu trừ số tiền 50.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 030933 ngày 01/02/2010 của Chi cục thi hành án dân sự huyện (nay là thị xã) Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, bị cáo còn phải nộp 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng).

Bị cáo, bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 232/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:232/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về