Bản án 23/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh L. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2021/TLST-HS ngày12tháng 3năm 2021,theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:20/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021,đối với:

Bị cáo Phan Tiến Đ; sinh ngày 01 tháng 11 năm 1999 tại L; Nơi ĐKNKTT và cư trú: Thôn S, xã H, huyện D, tỉnh L; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn Đ và bà Vũ Thị Ê; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/11/2020. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 23 giờ ngày 11 tháng 11 năm 2020 tại khu vực nghĩa địa Thôn N, xã H, huyện D, tỉnh L, Công an xã H đã kiểm tra phát hiện và thu giữ trong túi áo khoác của Phan Tiến Đ 01 túi nylon có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá. Công an huyện D đã niêm phong và trưng cầu giám định. Tại Kết luận giám định số: 1952/GĐ-PC09 ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luân:

“Mâu tinh thể đựng trong gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2265g (Không phây hai hai sáu năm gam),loại Methamphetamine.

Methamphetamin là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.” Tại Cáo trạng số:15/CTr-VKS ngày 12 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, tỉnh L đã truy tố bị cáo Phan Tiến Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phan Tiến Đ thừa nhận do nghiện ma túy nên bị cáo đã mua 300.000 đồng ma túy đá của người lạ mặt tại khu vực hồ bơi thuộc xã L, thành phố B, tỉnh L vào ngày 11/11/2020 để sử dụng. Khi bị cáo về khu vực nghĩa địa Thôn N, xã H, huyện D, tỉnh L để sử dụng ma túy thì bị Công an kiểm tra và phát hiện thu giữ0,2265g ma túy loại Methamphetamine bị cáo đang mang theo trên người. Quá trình thẩm vấn tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải và xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo Phan Tiến Đ là có căn cứ pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” .Do bị cáo có ông nội là liệt sĩ nên đề nghị áp dụng Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Di Linh, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa,bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa,bị cáo Phan Tiến Đ thừa nhận đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,2265 gamma túy loại Methamphetamin vàongày 11 tháng 11 năm 2020. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản sự việc và biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng lập ngày 11 tháng 11 năm 2020;Kết luận giám định số: 1952/GĐ-PC09 ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L .Do đó, có đủ căn cứ xác định: Do nghiện ma túy nên vào ngày 11 tháng 11 năm 2020,bị cáo Phan Tiến Đ đã mua và tàng trữ trái phép 0,2265 gamma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có ông nội là liệt sĩ, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt: Hành vi cố ý tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo Đã vi phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước. Trong tình hình người sử dụng ma túy và tội phạm liên quan đến ma túy hiện nay có diễn biến phức tạp và là một trong những nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần xử lí nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phục vụ công tác phòng, chống tội phạm tại địa phương. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề xuất của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Đối với số ma túy còn lại sau khi giám định cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với người bán ma túy cho bị cáo chưa xác định được nhân thân lai lịch nên cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh xử lý là đúng pháp luật.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án. Cần buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Phan Tiến Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phan Tiến Đ 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30 tháng 11 năm 2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án 2.Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu huỷ các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện D và Chi cục Thi hành án dân sự huyện D lập ngày 12/3/2021, gồm:

Một phong bì số 1952/2020/PC09 có ghi: Vụ: Phan Tiến Đ (1999), HKTT: Thôn 6, Hòa Nam, Di Linh, L; QĐTC: 100, ngày 13/11/2020; Hoàn mẫu m:

0,0904(g); phong bì đã được niêm phong có chữ ký ghi họ tên của Võ Như Thuận, Nguyễn Quang Hưng, Lê Công Thuận và có hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L;

Một phong bì số 1952/2020/PC09 có ghi: Vụ: Phan Tiến Đ (1999), HKTT: Thôn 6, Hòa Nam, Di Linh, L; QĐTC: 100, ngày 13/11/2020; Bao gói; phong bì đã được niêm phong có chữ ký ghi họ tên của Võ Như Thuận, Nguyễn Quang Hưng, Lê Công Thuận và có hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L.

3.Về án phí:Buộc bị cáo Phan Tiến Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về