Bản án 23/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm 1995 tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú : Thôn A, xã Q, huyện T, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn M ( chết) và bà Trần Thị N; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt

Bị hại: Chị Cao Thị N, sinh năm 1996 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hồ Ngọc H, sinh năm 1990 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Người làm chứng: Anh Vương Công Đ, sinh năm 1991 – Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn C, xã Q, huyện T, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 04-11-2020 Trần Văn T đến quán cà phê Washing and Coffee do chị N làm chủ, khoảng 14 giờ T mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario 125, màu sơn xanh đen, BKS 48K1-120.XX của chị N để đi lấy tiền từ một người bạn tên Tùng (do trước Tùng mượn của T 500.000 ồng), hẹn trả xe trước 16 giờ cùng ngày. Sau khi điều khiển xe đến cây xăng Ngọc My đổ xăng, T thấy trong cốp có giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe và CMND của chị N nên nảy sinh ý định cầm cố xe lấy tiền chơi game. Để thực hiện ý định, T đến quán Internet “Nhất game” gặp Trường, nhờ Trường đi cùng đến tiệm cầm đồ N tại Tổ dân phố B, thị trấn K, huyện Đ. Đến nơi, T một mình đi vào tiệm cầm đồ, nói với anh H xe do T mua lại của người khác nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Anh H đồng ý nhận cầm cố xe với giá 15.000.000 đồng, T giao xe và giấy chứng nhận đăng ký xe của chị N, giấy CMND của T cho anh H. Sau đó, T nhờ Trường chở đến cửa hàng Viettel, nạp toàn bộ số tiền vừa cầm cố được vào tài khoản game để mua tiền ảo, rồi quay lại quán Internet chơi game. Khoảng một tiếng sau, T chơi thua hết tiền ảo trong tài khoản game của mình nên tiếp tục đến tiệm cầm đồ N, đưa giấy CMND của chị N cho anh H, lấy thêm 7.000.000 đồng. Sau đó, T đến cửa hàng Viettel tiếp tục nạp tiền vào tài khoản game, rồi quay lại quán Internet chơi game tiếp. Khoảng 16 giờ cùng ngày, anh Đ (bạn của chị N và T) gọi điện nói T đưa xe về trả. T quay lại quán cà phê nói với anh Đ, chị N là đã mang xe của chị N đi cầm cố. Anh Đ, chị N yêu cầu T phải chuộc xe trả lại cho chị N trước 18 giờ cùng ngày. Tuy nhiên, sau đó T không chuộc lại xe cho chị N như đã cam kết nên ngày 05- 11-2020 chị N trình báo sự việc đến cơ quan Công an.

Quá trình điều tra Trần Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 34/KLHDĐG ngày 23-11-2020 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario 125, màu sơn xanh đen, BKS 48K1-120.XX, số máy: JM51E1451225, số khung: 5118KK451689, tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 41.610.000 đồng (bốn mươi mốt triệu sáu trăm mười nghìn ồng) Cáo trạng số 19/Ctr-VKS ngày 15-03-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông truy tố Trần Văn T về tội:“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Văn T khai nhận như khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là hoàn toàn đúng với hành vi bị cáo thực hiện và không bào chữa, tranh luận gì.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng số 04 ngày 18- 12-2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp, trả lại xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario 125, màu sơn xanh đen, BKS 48K1-120.XX; giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 010748; giấy CMND số 245294292 cho bị hại, chị Cao Thị N.

Chấp nhận ngày 08-02-2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’lấp trả 01 giấy chứng minh nhân dân số 245240934 cho Trần Văn T.

Hợp đồng cầm cố ngày 04-11-2020 (bản gốc); 02 phiếu yêu cầu dịch vụ nạp tiền vào tài khoản tại cửa hàng Viettel là tài liệu kèm theo hồ sơ vụ án nên cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ.

Về việc bồi thường thiệt hại: Chị Cao Thị N đã nhận lại tài sản, ngày 08-01-2021 bị cáo T đã tự nguyện bồi thường cho chị N số tiền 3.000.000 đồng tổn thất trong thời gian chị N không có phương tiện đi lại; Ngày 25-12-2020 bị cáo T bồi thường cho anh Hồ Ngọc H (chủ tiệm cầm đồ N) số tiền 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu ồng). Chị N, anh H không yêu cầu gì thêm nên không đề cập xử lý.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đăk R’Lấp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’Lấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai. Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Trần Văn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự; ngày 04-11-2020 T mượn xe mô tô hiệu nhãn hiệu Honda, loại Vario 125, màu sơn xanh đen, BKS 48K1-120.XX trị giá 41.610.000 đồng do chị Cao Thị N là chủ sở hữu với mục đích đi gặp bạn, hẹn trả l c 16 giờ cùng ngày. Sau khi nhận xe, phát hiện trong cốp có giấy chứng nhận đăng ký xe và vì muốn nhanh chóng có tiền chơi game nên T đem xe mượn đi cầm cố lấy số tiền 22.000.000 đồng dẫn đến không có khả năng trả lại xe cho chị N. Bị cáo nhận thức được hành vi cầm cố xe mượn, không thuộc quyền sở hữu của mình là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ nhưng vẫn cố ý thực hiện bằng cách nói dối với chủ tiệm cầm đồ là xe bị cáo mua nhưng chưa sang tên. Vì vậy, hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, cần chấp nhận.

[3]. Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo về hành vi của mình, chủ động bồi thường cho bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về quyết định hình phạt: Bị cáo T có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo hoàn toàn có đủ khả năng lao động, có thể bằng sức lao động của mình để tạo thu nhập, nuôi sống bản thân và gia đình nhưng lại vì muốn nhanh chóng có tiền chơi game mà đem xe mình mượn được đi cầm cố là thể hiện ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của công dân, làm ảnh hưởng lòng tin trong nhân dân c ng như tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử c ng xem xét các tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt, để bị cáo nhận thấy sự khoan hồng của pháp luật, sớm cải tạo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền.

[5]. Về việc bồi thường thiệt hại: Bị hại chị Cao Thị N đã nhận lại tài sản; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Hồ Ngọc H đã nhận tiền bồi thường, không yêu cầu gì thêm. Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6]. Về việc xử lý vật chứng:

Hợp đồng cầm cố ngày 04-11-2020 (bản gốc); 02 phiếu yêu cầu dịch vụ chuyển tiền vào tài khoản tại cửa hàng Viettel là tài liệu kèm theo hồ sơ vụ án nên cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ.

Ngày 18-12-2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp ra Quyết định xử lý vật chứng số 04, trả lại xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario 125, màu sơn xanh đen, BKS 48K1-120.XX; giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 010748; giấy CMND số 245294292 cho chị Cao Thị N; ngày 08-02-2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’lấp trả 01 giấy chứng minh nhân dân số 245240934 cho Trần Văn T, các chủ sở hữu hợp pháp là đúng quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, cần chấp nhận.

[7]. Về án phí: Bị cáo Trần Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’Lấp, tỉnh Đăk Nông về tội danh, tình tiết giảm nhẹ, hình phạt, về việc bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” Xử phạt bị cáo Trần Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về việc xử lý vật chứng:

Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án Hợp đồng cầm cố với nội dung: Trần Văn T cầm cố xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vario 125, màu sơn xanh đen, BKS 48K1-120.XX; CMND, thời hạn cầm cố từ ngày 04-11-2020 đến ngày 20-11-2020.

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng số 04 ngày 18-12-2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp. Chấp nhận ngày 08-02-2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’lấp trả 01 giấy chứng minh nhân dân số 245240934 cho bị cáo Trần Văn T.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn ồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về