Bản án 23/2021/HS-ST ngày 16/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy   

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 16/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Hôm nay, ngày 16 tháng 3 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 77/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:18/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

N Đ H L (B), sinh năm 1993, tại Đồng Nai; nơi cư trú: Khu phố L, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Thợ làm sắt; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông N L, sinh năm: 1961 và bà T H, sinh năm: 1968; vợ: N T, sinh năm: 1996 và có 02 con lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/9/2020 và đang bị tạm giam cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị L K H, sinh năm: 1999 (Vắng mặt không có lý do). Địa chỉ: Ấp 7, xã C, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

2. Anh N C T, sinh năm: 1991 (Vắng mặt không có lý do). Địa chỉ: Ấp 3, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 14/9/2020 N Đ H L điều khiển xe mô tô hiện Honda wave màu xanh, biển số 60G1-222.86 đi đến khu chung cư thuộc thị trấn T, huyện T gặp một đối tượng tên T (không rõ nhân thân lai lịch) mua một bịch ma túy với giá 500.000 đồng để sử dụng và đem bán kiếm lời. Khi L mang ma túy về nhà tại khu L, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đồng Nai thì N C T gọi điện hỏi mua ma túy thì L đồng ý bán với giá 700.000 đồng và bảo Tài đến nhà L để lấy ma túy nhưng Tài nói không có xe. Đến khoảng 07 giờ ngày 15/9/2020, Tài tiếp tục gọi điện thoại cho L hẹn đến lô cao su thuộc ấp Suối Đục, xã Sông Nhạn, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai để giao ma túy thì L đồng ý, rồi điều khiển xe mô tô hiệu Honda wave màu xanh, biển số 60G1-222.86 đến gặp Tài để bán ma túy. Khi L đi đến bìa lô cao su R9 thuộc ấp S, xã S, huyện C thì bị Công an huyện C bắt quả tang, thu giữ bên trong túi quần bên trái của L 01 bịch ni lôngg màu trắng được hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng.

Tại Bản kết luận giám định số 2196/KLGĐ –PC09 ngày 18/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: mẫu tinh thể gửi đi giám định là ma túy có, có khối lượng 0,4840 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng vụ án:

+ 01 (Một) gói niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai số: 2196/KLGĐ –PC09 ngày 18/9/2020, bên trong có chứa chất Methamphetamine, khối lượng còn lại sau giám định 0,4541 gam.

+ 01 (Một) Điện thoại di động hiệu Nokia màu đen.

+ 01 (Một) mô tô hiệu Honda wave màu xanh, biển số 60G1-222.86 của L K H.

Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKSCM ngày 28/12/2020 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo N Đ H L về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 251; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Đối với N C T mua ma túy của L để sử dụng nhưng do L chưa kịp giao ma túy cho tài đã bị bắt nên không có cơ sở để xử lý đối với Tài.

Riêng đối tượng tên Tuấn do chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong có dấu đỏ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai số 2196/KLGĐ –PC09 ngày 18/9/2020.

Trả lại một điện thoại Điện thoại di động hiệu Nokia màu đen cho chị L K H.

Tịch thu của N C T số tiền 700.000 đồng sử dụng để mua ma túy.

Đối với 01 (Một) mô tô hiệu Honda wave màu xanh, biển số 60G1-222.86 là tài sản hợp pháp của chị L K H. Khi L mượn xe thì chị H không biết bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã trả lại xe cho chị H là phù hợp.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết lỗi, xin hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất để về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền L, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về xác định tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: khoảng 07 giờ, ngày 15 tháng 9 năm 2020, bị cáo Nguyễn Đình Hương L có hành vi mang theo một bịch ni lông màu trắng được hàn kín hai đầu bên trong có chứa ma túy với khối lượng là 0,4840 gam, loại Methamphetamine đến lô cao su R9 thuộc ấp Suối Đúc, xã Sông Nhạn, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai để bán cho N C T với giá 700.000 đồng thì bị lực lượng Công an huyện Cẩm Mỹ bắt quả tang. Do đó, đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo N Đ H L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, Điều 251 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, ảnh H đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật, giết người..., làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần xử bị cáo một mức án đúng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung, đồng thời cho bị cáo một thời gian cần thiết để cai nghiện ma túy. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, do đó, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động phổ thông, phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong có dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai số 2196/KLGĐ –PC09 ngày 18/9/2020 bên trong có ma túy loại Methamphetamine.

Trả lại một điện thoại di động hiệu Nokia màu đen cho chị L K H.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 700.000 đồng mà N C T sử dụng để mua ma túy.

Đối với 01 (Một) mô tô hiệu Honda wave màu xanh, biển số 60G1-222.86 là tài sản hợp pháp của chị L K H. Khi L mượn xe thì chị H không biết bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã trả lại xe cho chị H là phù hợp.

[5] Đối với N C T mua ma túy của L để sử dụng nhưng do L chưa kịp giao ma túy cho Tài đã bị bắt nên không có cơ sở để xử lý đối với Tài.

Riêng đối tượng tên Tuấn do chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Mỹ tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

[7] Đề nghị của Viện kiểm sát: Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo N Đ H L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng: Khoản 1, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bị cáo N Đ H L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, Thời hạn từ tính từ ngày 15/9/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong có dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai số 2196/KLGĐ –PC09 ngày 18/9/2020 bên trong có ma túy loại Methamphetamine.

Trả lại cho chị L K H một điện thoại di động hiệu Nokia màu đen.

(Theo Biên bản giao nhân vật chứng, tài sản ngày 28/12/2020, giữa Công an huyện Cẩm Mỹ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ).

Buộc anh N C T nộp lại số tiền 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng sử dụng để mua ma túy để tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

3. Án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người có quyền L, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 16/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy   

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về