Bản án 23/2021/HS-ST ngày 10/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 10/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10/6/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân (viết tắt là TAND) huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 26/2021/TLST-HS ngày 18/05/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-HS ngày 28/5/2021, đối với bị cáo:

- NGUYỄN VĂN K, sinh năm 1977 tại tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Kh và bà Nguyễn Thị P; vợ là Nguyễn Thị Y và có hai con; tiền án: Bản án số 78/2018/HSST ngày 23/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xử bị cáo 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tiền sự: Không; nhân thân: Quyết định về việc đưa người nghiện ma túy vào cai nghiện, chữa trị tại cơ sở chữa bệnh số 577 ngày 19/5/2008 của Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương thời hạn 24 tháng;

Quyết định về việc đưa người nghiện ma túy vào cai nghiện, chữa trị tại cơ sở chữa bệnh số 4456 ngày 14/6/2011 của UBND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương thời hạn 24 tháng; Bản án số 35/2003/HSPT ngày 06/6/2003 của TAND tỉnh Hải Dương xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; bị cáo K bị tạm giữ từ ngày 28/3/2021 đến ngày 31/3/2021 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

+ Bà Nguyễn Thị P sinh năm 1954, địa chỉ Thôn A, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

+ Anh Lê Minh Đ, sinh năm 1991, địa chỉ: Thôn P, xã C, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn K là người nghiện ma túy. Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 28/3/2021 K điều khiển xe đạp màu bạc của bà Nguyễn Thị P (mẹ bị cáo) đi từ xã T đến thôn Đ, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương để mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, K mua được một túi nilon bên trong đựng hai gói giấy, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (K khai nhận là ma túy) với giá 200.000đ của người tên là T (K tự khai) và đạp xe đi về. Khoảng 8 giờ 45 phút ngày 28/3/2021 K đang đi trên đường Tỉnh lộ 390 thuộc thôn Đ, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương thì bị cơ quan Công an phát hiện, thu giữ một túi nilon bên trong đựng hai gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng.

Tại bản Kết luận giám định số 166/KLGĐ-PC09 ngày 30/3/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng niêm phong trong phong bì, ghi thu của Nguyễn Văn K gửi đến giám định có trọng lượng là 0,281 gram là ma túy, loại Heroin.

Tại bản Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 18/05/2021 VKSND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo K thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX): Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo K từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số ma túy được hoàn lại sau giám định; bi c̣ ao phai chiụ an phi hinh sư sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, Điều tra viên; VKSND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo Nguyễn Văn K có tội và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người tham gia tố tụng khác trong vụ án, các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 28/3/2021 tại đường Tỉnh lộ 390 thôn Đ, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương - Nguyễn Văn K đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,281 gram ma túy là Heroin, mục đích cất giấu để sử dụng cho bản thân, thì bị phát hiện, bắt giữ.

Xét bị cáo K là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép 0,281 gram ma túy là Heroin, mục đích để sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, hành vi của bị cáo K đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, nên quyết định truy tố của VKSND huyện Thanh Hà đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX xác định bị cáo K là người có nhân thân xấu và có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là Tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn kha i nhận, ăn năn hối cải; bị cáo có bố đẻ là ông Khôi được nhà nước tặng thưởng Huy chương nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xem xét hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp của bị cáo là lao động tự do, thu nhập không đáng kể, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với một phong bì thư dán kín niêm phong do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương hoàn lại sau khi đã giám định bên trong có chứa chất ma túy. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí sơ thẩm hình sự.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với người thanh niên tên T là người bán ma túy cho bị cáo (K tự khai) quá trình giải quyết vụ án chưa làm rõ được tên tuổi địa chỉ cụ thể, nên tiếp tục xác minh, xử lý sau. Đối với bà P không biết bị cáo sử dụng xe đạp đi mua ma túy nên không phải chịu trách nhiệm; quá trình giải quyết vụ án Cơ quan điều tra đã trả lại xe đạp cho bà P.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn K.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

3. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/3/2021.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 0,230 gram ma túy là Heroin đựng trong một bì thư dán kín niêm phong vật chứng số 166/KLGĐ-PC09 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương hoàn lại sau giám định.

Vật chứng nêu trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc Công an huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương ghi ngày 07/6/2021.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bi c̣ ao K phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bi ̣cao K đươc quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 10/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về