TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 23/2021/HS-PT NGÀY 31/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 31 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/TLPT-HS ngày 17/02/2021, đối với bị cáo Võ Thị Đ, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 84/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 của Tòa án nhân dân quận T, thành phố Cần Thơ.
Bị cáo có kháng cáo:
Võ Thị Đ, sinh ngày 20/3/1960 tại Cần Thơ.
Nơi cư trú: khu vực 2, phường N, quận T, thành phố Cần Thơ.
Quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; con ông Võ Văn D(đã chết) và bà Trần Thị Đ; chồng tên Phan Văn Th; con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án: Không; tiền sự: Không;
Ngày 21/9/2020 bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trịnh Hữu B – Văn phòng luật sư K thuộc Đoàn luật sư thành phố Cần Thơ.
Vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Qua công tác trinh sát nắm tình hình quản lý địa bàn, đối tượng, khoảng 16 giờ 50 phút ngày 18/8/2020 đội Cảnh sát hình sự Công an quận T, thành phố Cần Thơ kết hợp Công an phường N, quận T tiến hành kiểm tra đối với Võ Thị Đ tại nhà khu vực 2, phường N, quận T, thành phố Cần Thơ. Qua kiểm tra phát hiện các phơi số đề, điện thoại di động liên quan đến việc mua bán số đề nên tiến hành lập biên bản và thu giữ tang vật.
Tang vật thu giữ: 03 tờ phơi đề; 01 cây viết bíc màu xanh; 01 máy tính casio màu trắng, đen; 01 diện thoại Iphone 7 plus, màu đỏ có bên trong có sim số 0796 863 169; Tiền Việt Nam: 5.500.000đồng.
Quá trình điều tra Võ Thị Đ khai nhận: Thông qua mối quan hệ bạn bè quen biết người tên U (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể). Đ và U thoả thuận với nhau Đ sẽ nhận ghi bán số đề cho những người mua sau đó tổng hợp lại và giao cho U thông qua mạng xã hội Zalo (đăng ký sim số 0932 856 649). Lợi ích Đ được hưởng là 2% (1.000.000đồng thì được 20.000đồng) trên tổng số tiền bán được. Từ đầu tháng 5/2020 Đ bắt đầu bán số đề. Ngày 18/8/2020 Đ bán số đề cho Võ Thị P, Nguyễn Văn Q và một số người chưa xác định được. Cách thức giao dịch là những người có nhu cầu mua số đề tự đến gặp Đ để trực tiếp mua hoặc nhắn tin qua điện thoại. Sau đó, Đ tổng hợp và lựa những số có số tiền mua lớn chuyển cho U để nhận tiền hoa hồng, những số mà người mua với số tiền ít thì Đ giữ lại để trực tiếp ăn thua. Căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết ở các đài truyền thống miền Nam để xác định thắng, thua, số đầu đuôi, lô hai con 1.000đồng sẽ thắng được 70.000đồng; số lô ba con, số đá 1.000 đồng sẽ thắng được 600.000đồng.
Căn cứ vào biên bản kiểm tra phơi đề, điện thoại xác định số tiền dùng để đánh bạc trong ngày 18/8/2020, đài Bạc Liêu của Võ Thị Đ như sau:
+ Phơi số 01: Số tiền dùng để đánh bạc là: 2.041.000đồng;
+ Phơi số 02: Số tiền dùng để đánh bạc là 1.450.000đồng;
+ Phơi số 03: Số tiền dùng để đánh bạc là 749.000đồng;
+ Phơi trong điện thoại gửi cho U Chi 2, Đ thêm tiền vào những con số của khách đã mua và mua những số mới là: 1.176.000đồng.
Tổng số tiền dùng để đánh bạc là: 5.416.000đồng.
Đối với Võ Thị P, Nguyễn Văn Q do số tiền dùng để đánh bạc chưa đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận T, thành phố Cần Thơ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Đối với người phụ nữ tên U nhận phơi đề từ Đ do chưa rõ tên họ và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận T, thành phố Cần Thơ tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.
Tại bản án số 84/2020/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2020, Tòa án nhân dân quận T đã căn cứ theo khoản 1 Điều 321, Điều 38, Điều 50, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt : Bị cáo Võ Thị Đ 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra Tòa cấp sơ thẩm còn tuyên phần xử lý vật chứng, buộc nộp tiền thu lợi bất chính, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi tuyên án sơ thẩm, vào ngày 04 tháng 01 năm 2021, bị cáo Võ Thị Đ có đơn kháng cáo xin thay đổi việc áp dụng hình phạt tù giam 06 (sáu) tháng để chuyển qua việc áp dụng hình phạt tiền.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo vẫn giữ yêu cầu kháng cáo, xin được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính để bị cáo có điều kiện điều trị bệnh ung thư.
Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất với tội danh Tòa cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo, thống nhất với phần phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Luật sư cho rằng số tiền đánh bạc của bị cáo chỉ ở mức khởi điểm, bị cáo đã được xóa tiền sự theo quy định, bị cáo đang bị bệnh nan y nên đề nghị xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhận định hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ hành vi đã thực hiện là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Mức án tòa cấp sơ thẩm tuyên có xem xét các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm chứng cứ mới là giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân địa phương về hoàn cảnh của bị cáo và giấy nộp tiền thu lợi bất chính theo Bản án sơ thẩm đã tuyên. Bị cáo bị bệnh ung thư phải theo dõi tái khám định kỳ nên đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Sửa bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận T, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận T, thành phố Cần Thơ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa sơ và phúc thẩm phù hợp với các biên bản ghi lời khai cùng các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 50 phút ngày 18/8/2020 bị cáo Võ Thị Đ có hành vi bán số đề cho nhiều người, tổng số tiền bán số đề trong ngày là 5.416.000đồng. Hành vi của bị cáo xâm phạm trực tiếp đến an ninh trật tự công cộng và nếp sống văn minh của xã hội. Cờ bạc là tệ nạn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác, gây mất trật tự an ninh ở địa phương, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, làm tiêu tán tài sản, kinh tế của nhiều gia đình. Bị cáo là người có đủ năng lực, chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức biết rõ việc ghi đề là một hình thức đánh bạc bị Nhà nước cấm, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng hình sự; khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có cung cấp giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân địa phương nơi bị cáo cư trú về việc đang điều trị bệnh hiểm nghèo; đồng thời, ở giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo đã nộp toàn bộ khoản tiền thu lợi bất chính theo quyết định của Bản án sơ thẩm thể hiện thái độ ăn năn hối cải bị cáo. Bị cáo đã hơn 60 tuổi, có nơi cư trú rõ ràng, mắc bệnh ung thư mặc dù đã được điều trị nhưng vẫn còn trong giai đoạn theo dõi, tái khám định kỳ nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Mặt khác, động cơ phạm tội của bị cáo là do hám lợi nên áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính với mức phạt nghiêm khắc cũng đảm bảo được tính răn đe giáo dục đối với bị cáo nên thống nhất với đề nghị của kiểm sát viên chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[4] Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1, Khoản 2 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thị Đ, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 84/2020/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2020, Tòa án nhân dân quận T, thành phố Cần Thơ.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tuyên bố: Bị cáo Võ Thị Đ phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt: Bị cáo Võ Thị Đ số tiền 40.000.000đồng (bốn mươi triệu đồng). Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 23/2021/HS-PT ngày 31/03/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 23/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về