Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 31/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên; xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 81/2021/TLST- HN&GĐ ngày 09 tháng 3 năm 2021 về Ly hôn; tranh chấp nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lường Thị L; sinh năm: 1996; địa chỉ: Bản T, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Bạc Cầm H; sinh năm: 1983; địa chỉ: Bản T, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 01 tháng 3 năm 2021, bản tự khai tại Tòa án nguyên đơn chị Lường Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Chị Lường Thị L và anh Bạc Cầm H đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên vào ngày 25/6/2013, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không ai cản trở ép buộc. Quá trình chung sống kể từ khi kết hôn hạnh phúc được mấy năm đầu, sau đó nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách không hợp, cuộc sống bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung, anh H đã nhiều lần đánh chị L. Do không chịu đựng được nên đến 20/6/2020 chị L và anh H đã sống ly thân với nhau cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, vợ chồng không còn quan tâm, chia sẻ. Đến nay chị L không còn tình cảm với anh H nên chị đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho chị L được ly hôn với anh Bạc Cầm H.

Về con chung: Chị Lường Thị L và anh Bạc Cầm H, có 02 người con chung, cháu tên là Bạc Kiều V; sinh ngày 13/6/2014 và Bạc Bảo B; sinh ngày 02/5/2019. Hiện tại con chung do chị L trực tiếp nuôi dưỡng, khi ly hôn chị L có nguyện vọng được nhận trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi và đủ khả năng lao động. Do chị L có thu nhập và nhà ở ổn định đảm bảo đời sống cho con nên không đề nghị anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Đề nghị Tòa án giải quyết cho chị L về giao nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Lường Thị L đề nghị miễn nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

a án đã triệu tập hợp lệ anh Bạc Cầm H tham gia tố tụng, nhưng anh Hùng không có ý kiến gì về việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:

- Về tố tụng: Đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ lời trình bày của nguyên đơn và kết quả xác minh của Tòa án; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lường Thị L cho chị L ly hôn với anh Bạc Cầm H; đề nghị HĐXX áp dụng Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình giao cháu Bạc Kiều Vi; sinh ngày 13/6/2014 và Bạc Bảo B; sinh ngày 02/5/2019 cho chị Lường Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động; anh Bạc Cầm H chưa cấp dưỡng nuôi con chung. Căn cứ Điều 147 BLTTDS, Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho chị Lường Thị L, do chị Lan là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Xét đơn khởi kiện ly hôn, tranh chấp nuôi con của chị Lường Thị L với anh Bạc Cầm H thì được xác định là vụ án ly hôn và tranh chấp nuôi con chung theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Thời điểm chị L nộp đơn khởi kiện xin ly hôn, anh H có nơi ĐKHKTT tại bản T, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; quá trình giải quyết vụ án đương sự đã nhận được đầy đủ các thông báo, Quyết định hợp lệ. Tại phiên tòa, anh H đã được triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; việc đưa ra xét xử vắng mặt anh H vẫn đảm bảo quyền lợi cho anh H phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS. Tại phiên tòa chị L có đơn xin vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 BLTTDS chấp nhận đơn xin vắng mặt của chị L.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về Hôn nhân: Chị Lường Thị L và anh Bạc Cầm H đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên vào ngày 25/6/2013. Anh chị kết hôn tự nguyện, không ai cản trở ép buộc, nên có thể xác định hôn nhân của chị L và anh H là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9, Điều 11 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000. Cuộc sống hôn nhân giữa hai vợ chồng hạnh phúc những năm đầu, sau đó thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thiếu sự quan tâm, chia sẻ. Quá trình giải quyết Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng để thông báo cho anh H được biết, Tòa án sẽ tiến hành hòa giải giữa hai anh chị; tuy nhiên đến phiên hòa giải anh H không có mặt và chị L cũng có đơn đề nghị không tiếp tục hòa giải nữa vì tình cảm với anh H không còn. Để đảm bảo xác định tình trạng hôn nhân của hai anh chị được khách quan, toàn diện; Tòa án đã tiến hành xác minh thì thấy cuộc sống hôn nhân giữa hai anh chị đã có mâu thuẫn, từ giữa năm 2020 đã không còn sống chung, vợ chồng không có sự quan tâm, chăm sóc nhau. Do đó HĐXX thấy rằng: Cuộc sống hôn nhân giữa chị Lường Thị L và anh Bạc Cầm H đã không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được; vì vậy Hội đồng xét xử cần căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2014, để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lường Thị L, cho chị Lường Thị L ly hôn với anh Bạc Cầm H.

[2.2] Về con chung: Xét yêu cầu giao nuôi con chung của chị Lường Thị L thì thấy: Việc giao nuôi con chung cho chị L là hoàn toàn phù hợp để đảm bảo cho con có một cuộc sống ổn định, điều này giúp con chung có điều kiện phát triển tốt nhất về cả thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy cần căn cứ vào Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, giao cho chị Lường Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Do chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung là sự tự nguyện của đương sự, nên cần chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. [2.4] Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và đơn đề nghị miễn án phí. Hội đồng xét xử, xét thấy chị Lường Thị Lan đủ điều kiện được xét miễn án phí ly hôn.

[3] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đưa ra đề nghị hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và nội dung vụ án, vì vậy cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 51, 56, 81, 82, 83; 84 Luật hôn nhân & gia đình năm 2014.

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lường Thị L được ly hôn với anh Bạc Cầm H.

2. Về con chung: Giao cho chị Lường Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu Bạc Kiều V; sinh ngày 13/6/20142 và Bạc Bảo B; sinh ngày 02/5/2019 cho đến khi đủ 18 tuổi và đủ khả năng lao động; anh Bạc Cầm H không cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn chị Lường Thị L có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con, cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Anh Bạc Cầm H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở anh H thực hiện quyền này.

Chị Lường Thị L, anh Bạc Cầm H có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; khi người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu.

4. Nợ chung: Không có, không yêu cầu.

5. Về án phí: Chị Lường Thị L được miễn án phí ly hôn.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Lường Thị L, anh Bạc Cầm H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 31/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về