Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 24/2021/TLST-HNGĐ, ngày 27 tháng 01 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:16/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 16 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 26/2021/QĐST - HNGĐ, ngày 06 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1985. Địa chỉ: ấp 1, xã P , huyện C, tỉnh Trà Vinh.

- Bị đơn: Anh Lữ Quốc H, sinh 1987. Địa chỉ: ấp 1, xã P, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 11 năm 2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Nguyễn Thị D trình bày: Chị và anh H chung sống với nhau vào năm 2009, có đăng ký kết hôn vào năm 2010 tại UBND xã Phong Thạnh, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Quá trình chung sống, vợ chồng anh chị có một người con chung tên Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013. Nguyên nhân mâu thuẩn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cự cãi, anh H không quan tâm chăm sóc gia đình, vợ chồng chung sống không hạnh phúc. Nay chị xác định không còn tình cảm gì với anh H nên chị xin ly hôn với anh Lữ Quốc H.

Về con chung: chị D yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013 và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi hai con.

Về tài sản chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: không có.

Đối với bị đơn anh Lữ Quốc H: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho anh H, nhưng anh H cố tình vắng mặt nên Tòa án phải giao cho người thân theo quy định của pháp luật, anh H không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, không nêu ý kiến của mình. Vì vậy Tòa án chỉ tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đối với chị D và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay anh H vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh H. Chị D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là được ly hôn với anh Lữ Quốc H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Căn cứ trên cơ sở các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử:

Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị D.

Xử cho chị D được ly hôn với anh H.

Về con chung: giao cho chị D được tiếp tục nuôi dưỡng 02 đứa con chung tên Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013.

Về cấp dưỡng nuôi con: do chị D không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013, nên không xem xét giải quyết Về tài sản chung: chị D không yêu cầu nên không xem xét Về nợ chung: không có nên không xem xét Về án phí: buộc chị D phải chịu án phí theo quy định pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Nguyễn Thị D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Lữ Quốc H. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và thông báo về các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh H hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh H vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng, Hội đồng xét xử nghĩ nên áp dụng Điều 227, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh H chung sống với nhau vào năm 2010, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phong Thạnh, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh như vậy là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Chị D cho rằng chị và anh H mâu thuẩn là do vợ bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cự cãi, vợ chồng chung sống không còn hạnh phúc nên chị và anh H đã không còn chung sống với nhau khoảng hơn 01 năm nay. Nay chị kiên quyết xin ly hôn với anh Lữ Quốc H. Vấn đề này thấy rằng: Tuy mâu thuẩn vợ, chồng giữa chị D và anh H là không lớn lắm nhưng hai người lại bất đồng quan điểm, thường hay cải nhau, chung sống không hạnh phúc, vợ chồng không thể thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không quan tâm lẫn nhau. Anh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H vẫn không có mặt và cũng không có ý kiến gửi cho Tòa án. Từ đó thấy rằng anh H đã không còn quan tâm đến mối quan hệ vợ chồng giữa anh và chị D, mặc cho chị D muốn làm gì thì làm đủ để thấy giữa hai người không còn tình nghĩa vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại phiên tòa chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn, vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D xử cho chị D được ly hôn với anh H là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị D khai trong quá trình chung sống có 02 con chung là Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013 hiện do chị Nguyễn Thị D đang trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thị D có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung và chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi hai con, anh H vắng mặt không có ý kiến trình bày. Xét thấy, cháu Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013, từ khi anh chị ly thân hai cháu được chị D chăm sóc tốt mọi mặt, không bị ngược đãi, đánh đập gì, cả hai cháu đều đã trên 7 tuổi và nguyện vọng của hai cháu đều muốn được tiếp tục sống với mẹ là chị Nguyễn Thị D vì vậy Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị D là giao cháu Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013 cho chị Nguyễn Thị D tiếp tục nuôi dưỡng, đồng thời quy định về quyền được tới lui thăm nom con cho anh H sau khi ly hôn là có căn cứ, phù hợp với các Điều 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa hôm nay, chị D đã được Tòa án giải thích các quy định của pháp luật về người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng chị D cho rằng chị có đủ khả năng và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng hai con chung nên chị không có yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi hai con chung là Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013 nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị D không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét [6] Về nợ chung: không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị D phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quyđịnh của pháp luật.

[8] Từ những phân tích trên, xét đề nghị của vị kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39; 147, 227, 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị D. Chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Lữ Quốc H.

Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị D. Xử giao hai con chung tên Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013 cho chị Nguyễn Thị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, anh Lữ Quốc H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh Lữ Quốc H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Lữ Quốc H không phải cấp dưỡng nuôi con chung là Lữ Thị Thanh Ng, sinh ngày 20/9/2010 và Lữ Thị Thanh Th, sinh ngày 21/9/2013.

Về tài sản chung: Chị D không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét Về nợ chung: không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Buộc Chị Nguyễn Thị D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003840 ngày 18 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cầu Kè. Chị D đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Chị D được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ bản án được tống đạt hợp lệ.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về