Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HOÁ, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Chiêm Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án ly hôn thụ lý số: 17/2021/TLST - HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28/4/2021.

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị N, sinh năm 1993;

Địa chỉ: Thôn P, xã B, huyện L, tỉnh Tuyên Quang (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Phùng Thừa T, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn T1, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, quan điểm trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hoàng Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phùng Thừa T được tự do tìm hiểu, đi đến hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán; anh chị làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C theo quy định của pháp luật vào năm 2019. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị làm ăn, sinh sống tại thôn T1, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Cuộc sống chung hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, không có sự chia sẻ trong cuộc sống, dẫn đến sô sát, cãi chửi nhau. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra anh chị đã được hai bên gia đình khuyên bảo nhưng mâu thuẫn vợ chồng không khắc phục được. Đến tháng 10/2020 chị N và anh Tđã sống ly thân cho đến nay.

Chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể hàn gắn để quay về xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Phùng Thừa T.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị sinh được 01 con chung tên là Phùng Xuân Đ, sinh ngày 23/02/2020. Chị có quan điểm đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, anh Phùng Thừa T khai: Về quan hệ hôn nhân như chị N trình bày là đúng. Anh và chị N do hai bên tự nguyện tìm hiểu đã đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào năm 2019. Sau khi kết hôn anh và chị N sống tại thôn T1, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do hai vợ chồng tính tình không hợp nhau, không thông cảm cho nhau trong cuộc sống. Đến tháng 3/2020 chị N xin về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và làm ăn tại thôn P, xã B, huyện L, tỉnh Tuyên Quang, sau đó anh T đã khuyên bảo và đến đón chị N nhiều lần nhưng chị N cương quyết không về. Anh T xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn nên chị N xin ly hôn anh không nhất trí.

Quá trình chung sống anh và chị N sinh được 01 con chung tên là Phùng Xuân Đ, sinh ngày 23/02/2020. Anh có quan điểm nhất trí để chị N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ và anh không cấp dưỡng nuôi con cùng chị N.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị N có đơn xin xét xử vắng mặt và giữ nguyên quan điểm nêu trong bản tự khai và biên bản hòa giải tại Tòa án. Anh T vắng mặt tại phiên tòa và không có ý kiến gì khác.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định; Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, các Điều 35, 39, 143, 144, 147, 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” của chị Hoàng Thị N, cho chị Hoàng Thị N được ly hôn với anh Phùng Thừa T.

- Giao cháu Phùng Xuân Đ, sinh ngày 23/02/2020 cho chị Hoàng Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Phùng Thừa T không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản và nợ chung chị Hoàng Thị N và anh Phùng Thừa T đều khẳng định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết, do vậy không xem xét.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (trong vụ án ly hôn) theo quy định. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng.

Chị Hoàng Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang giải quyết cho chị ly hôn với anh Phùng Thừa T; Anh Phùng Thừa T có hộ khẩu thường trú tại thôn T1, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Căn cứ theo khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về "Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn" và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang.

Chị Hoàng Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Phùng Thừa T đã được triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vắng mặt không có lý do, nên cần áp dụng các Điều 227, 228, 238 Bộ luật tố tụng xét xử vắng mặt đương sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ; thực hiện các thủ tục tống đạt văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

[2] Về việc xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị N và anh Phùng Thừa T có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình; có đăng ký kết hôn vào ngày 27/3/2019 tại UBND xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã. Hội đồng xét xử thấy rằng, cuộc sống chung của vợ chồng chị N và anh T không có sự gắn kết, chia sẻ trong cuộc sống để xây dựng một gia đình hạnh phúc; cả hai đều đã không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Như vậy, căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình thì tình trạng hôn nhân của chị N và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị N. Anh Phùng Thừa T xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn nên không nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng giữa anh T và chị N không có sự gắn kết trong cuộc sống, chị N đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và không quan tâm đến anh T nữa, anh T xin đoàn tụ chỉ nhằm ràng buộc lẫn nhau, nên cần bác yêu cầu xin đoàn tụ của anh T. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị N.

[2.2] Về con chung: Chị Hoàng Thị N và anh Phùng Thừa T có 01 con chung là cháu Phùng Xuân Đ, sinh ngày 23/02/2020. Xét thấy hiện nay cháu Đ còn nhỏ, chưa đủ 36 tháng tuổi, cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ để đảm báo cho sự phát triển về tâm sinh lý của trẻ nhỏ, chị N đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đ và không nhất trí cho anh Ttrực tiếp nuôi dưỡng cháu Đ. Anh Phùng Thừa T nhất trí giao cháu Đ cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Phùng Xuân Đ cho chị Hoàng Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị N không yêu cầu và anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp có sự thay đổi về điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục ảnh hưởng đến quyền lợi về mọi mặt của con và các bên đương sự có yêu cầu thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Hoàng Thị N và anh Phùng Thừa T cùng thống nhất không có, nên không đề nghị Toà án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị N phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm (trong vụ án ly hôn) theo quy định tại các Điều 143, 144, 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại điều 271 và điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự .

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 ; các Điều 35, 39, 143, 144, 147, 227, 228, 238, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôncủa chị Hoàng Thị N. Bác yêu cầu xin đoàn tụ của anh Phùng Thừa T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hoàng Thị N được ly hôn với anh Phùng Thừa T.

2. Về con chung: Giao cháu Phùng Xuân Đ, sinh ngày 23/02/2020 cho chị Hoàng Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Phùng Thừa T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm (trong vụ án ly hôn): Chị Hoàng Thị N phải nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000đ. Chị N đã nộp tạm ứng án phí là 300.000đ theo biên lai số AA/2019/0004770 ngày 05/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C nay được chuyển thành tiền án phí.

Anh Phùng Thừa T không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị N và anh Phùng Thừa T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 17/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về