Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 16/07/2021 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 16 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 09/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2021 về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXX-ST ngày 02 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1988. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

- Bị đơn: Ông Hoàng Văn D, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện và lời khai của nguyên đơn ông bà Phạm Thị T trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Hoàng Văn D có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông vào ngày 01/11/2007, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc.

Về con chung: Trong thời gian chung sống tôi và ông D có 03 con chung tên Hoàng Phi H, sinh ngày 20/5/2007; Hoàng Đức H, sinh ngày 29/7/2009; Hoàng Văn H, sinh ngày 18/5/2012.

Về tài sản chung: Không. Về công nợ: Không.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Trong cuộc sống hôn nhân bà và ông D không có tiếng nói chung, thường xuyên xảy ra cải nhau, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng nhiều.

Do đó bà làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết những vấn đề sau: Về quan hệ hôn nhân: Xin ly hôn với ông Hoàng Văn D; Về con chung: Giao 03 cháu chung tên Hoàng Phi H, sinh ngày 20/5/2007; Hoàng Đức H, sinh ngày 29/7/2009; Hoàng Văn H, sinh ngày 18/5/2012 cho ông Hoàng Văn D được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành; Về tài sản chung và công nợ: Không có.

- Theo nội dung lời khai của bị đơn ông Hoàng Văn D trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: Đối với bị đơn ông Hoàng Văn D, Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã tiến hành tống đạt hợp lệ giấy triệu tập đương sự; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông D, tuy nhiên ông D cố tình trốn tránh không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án xin ly hôn với bà T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà xác định việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm cơ bản tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa tuân thủ quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Phạm Thị T, bà Phạm Thị T được ly hôn với ông Hoàng Văn D.

- Về con chung: Giao cháu tên Hoàng Phi H, sinh ngày 20/5/2007; cháu Hoàng Đức H, sinh ngày 29/7/2009; cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 18/5/2012 cho ông Hoàng Văn D được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

- Về tài sản chung và công nợ: Không có, nên không đặt ra để giải quyết.

- Về án phí: Bà Phạm Thị T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án xin ly hôn, bị đơn ông Hoàng Văn D có địa chỉ tại thôn Đ, xã Đ, huyện Đl, tỉnh Đắk Nông. Do đó việc Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông thụ lý và giải quyết là đúng quy định tại Điều 28;

khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của nguyên đơn bà Phạm Thị T: Đối với bà Phạm Thị T trong quá trình giải quyết vụ án đã có đơn xin xét xử vắng mặt, do đó Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà Phạm Thị T theo quy định của pháp luật.

Về sự vắng mặt của bị đơn ông Hoàng Văn D: Đối với bị đơn ông Hoàng Văn D, sau khi vụ án được đưa ra xét xử, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa, tuy nhiên ông D vẫn vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Hoàng Văn D theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Bà Phạm Thị T và ông Hoàng Văn D có đăng ký kết hôn vào ngày 01/11/2007 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc. Trong thời gian chung sống bà Phạm Thị T, ông Hoàng Văn D có 03 con chung tên Hoàng Phi H, sinh ngày 20/5/2007; Hoàng Đức H, sinh ngày 29/7/2009; Hoàng Văn H, sinh ngày 18/5/2012. Thời gian chung sống bà T, ông D hay bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, bà T và ông D đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay.

[3] Xét yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị T:

- Về hôn nhân: Bà Phạm Thị T, ông Hoàng Văn D có đăng ký kết hôn tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, thời gian đầu hai bên chung sống hạnh phúc với nhau, về sau thì hai bên bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, hay xảy ra cải nhau, bà T và ông D đã sống ly thân với nhau từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay. Trong quá trình lấy lời khai bà T thừa nhận không còn tình cảm với ông D và muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống vì hôn nhân vợ chồng không đạt được mục đích.

Xét thấy bà T, ông D đã sống ly thân với nhau, điều đó thể hiện quan hệ hôn nhân giữa bà T, ông D đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy để giải phóng cho hôn nhân không còn mục đích, Hội đồng xét xử nghĩ cần căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho ly hôn giữa bà Phạm Thị T và ông Hoàng Văn D là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà T đồng ý giao cháu Hoàng Phi H, sinh ngày 20/5/2007; cháu Hoàng Đức H, sinh ngày 29/7/2009; cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 18/5/2012 cho anh Hoàng Văn D được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành, hiện con chung đang ở cùng ông D, do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu H, cháu H, cháu Đức cho ông D được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giao dục là phù hợp.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra để giải quyết.

[4] Về án phí: Bà Phạm Thị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tại phiên toà là có căn cứ, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 91; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Phạm Thị T về việc xin ly hôn với ông Hoàng Văn D.

2. Về con chung: Giao Hoàng Phi H, sinh ngày 20/5/2007; cháu Hoàng Đức H, sinh ngày 29/7/2009; cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 18/5/2012 cho anh Hoàng Văn D được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, đến khi cháu H, cháu H, cháu H đủ 18 tuổi trưởng thành. Bà Phạm Thị T được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, ông D không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục con chung.

Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật HNGĐ năm 2014.

Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng, thay đổi mức cấp dưỡng, chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định các Điều 84; Điều 110; Điều 117; Điều 118 và Điều 119 Luật HNGĐ năm 2014.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra để giải quyết.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 144; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bà Phạm Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003873 ngày 27/01/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 16/07/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về