Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 05/05/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 05 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 445/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1979. Cư trú: đường T, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn T1, sinh năm 1987. Cư trú: đường T, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử cũng như lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị Thanh T trình bày: Bà và ông Lê Văn T1 chung sống với nhau như vợ chồng từ đầu năm 2011, đến tháng 4/2012 thì cả hai tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 35 ngày 02/4/2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do tính cách không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, kinh tế gia đình một mình bà gánh vác, ông T1 thường đánh đập, xúc phạm bà và còn hay bạo hành tình dục nên cuộc sống vợ chồng luôn tranh cải, căng thẳng, tình trạng này kéo dài nhiều năm không khắc phục được. Hiện nay vợ chồng ở chung một nhà nhưng đã sống ly thân, mạnh ai nấy sống không quan tâm chăm sóc lẫn nhau và bà cũng không còn tình cảm với ông T1 nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông T1.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Trần Gia B, sinh ngày 26/12/2011. Ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con chung do bà đủ khả năng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà và ông T1 tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà xác định không có.

Trong quá trình xét xử bị đơn ông Lê Văn T1 trình bày: Ông và bà T chung sống và đăng ký kết hôn như lời trình bày của bà T là đúng. Sau khi kết hôn thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nhưng đến năm 2018 do ông đi làm xa nhà, bà T không chung thủy nên vợ chồng xảy ra tranh cải, ông có nóng giận đánh bà T từ đó tình cảm vợ chồng lạnh nhạt dần. Sau những mâu thuẫn vợ chồng đã tìm cách nói chuyện hàn gắn nhưng không có kết quả. Tuy nhiên ông vẫn còn tình cảm với bà T nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung như bà T trình bày. Trường hợp Toà án giải quyết cho ly hôn thì ông đồng ý giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

Về tài sản chung: Ông và bà T tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông xác định không có.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bảo Lộc phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 cho bà T được ly hôn với ông T1 vì mục đích hôn nhân không đạt; giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát; Tòa án nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn ông Lê Văn T1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt và không thuộc trường hợp bất khả kháng, nên căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Về quan hệ tranh chấp: Bà Trần Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu Tòa án cho ly hôn với ông T1 hiện cư trú tại xã Lộc Châu, thành phố Bảo Lộc. Do vậy, xác định đây là tranh chấp ly hôn theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T1 là hợp pháp do hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, bà T xác định cuộc sống vợ chồng không thể hòa hợp, tình cảm không còn nên yêu cầu được ly hôn. Phía ông T1 trình bày cuộc sống vợ chồng luôn phát sinh mâu thuẫn, mặc dù ông đã tìm cách khắc phục nhưng vẫn không có kết quả; tuy nhiên ông T1 không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ con, mong muốn đoàn tụ. Thực tế qua xác minh chính quyền địa phương thì cuộc sống vợ chồng của bà T và ông T1 không thuận hòa, luôn phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng hay xảy ra tranh cải, đánh đập nhau gây mất trật tự nơi sinh sống. Như vậy, với thực trạng hôn nhân như trên thể hiện mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng và kéo dài, có tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân thì mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Nên áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

[4]. Trường hợp ly hôn, vợ chồng thỏa thuận bà T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Trần Gia B, sinh ngày 26/12/2011 cho đến khi thành niên theo nguyện vọng của con. Xét sự thỏa thuận này phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận. Bà T không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con chung.

[5]. Về tài sản chung, bà T và ông T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết;

nợ chung cả hai đều xác định không có nên không đề cập.

[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở và phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[7]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

1. Về hôn nhân: Cho bà Trần Thị Thanh T ly hôn ông Lê Văn T1.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Lê Trần Gia B, sinh ngày 26/12/2011 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn và thay đổi nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2016/0018683 ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HNGĐ-ST ngày 05/05/2021 về ly hôn

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về