Bản án 23/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh ngày 20/01/2002, tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: Khu phố A, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1979 và bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1980; vợ, con: không; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/10/2019 đến ngày 27/10/2019. Bị cáo bị bắt tạm giam lại từ ngày 30/01/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Những người tham gia tố tụng:

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Văn H: Luật sư Lê Thị L – Văn phòng luật sư Việt Việt thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình Dương. (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Trịnh Thị Thanh T1, sinh năm 2001; hộ khẩu thường trú: Ấp E, xã E1, huyện D, tỉnh Bình Dương. (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

2. Bà Huỳnh Thị Thanh X, sinh năm 1983; hộ khẩu thường trú: Ấp E, xã E1, huyện D, tỉnh Bình Dương. (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Ông Mai Văn M (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2017, H thường mua ma túy từ đối tượng Trần Thanh Đ, cư trú tại khu phố A, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương và Trần Minh H1 (không rõ nhân thân, lai lịch) về sử dụng.

Do không có việc làm ổn định lại muốn có ma túy sử dụng nên từ giữa tháng 9 năm 2019, H nảy sinh ý định lấy ma túy của đối tượng tên Trần Minh H1 tại thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương về bán lại cho các con nghiện để được H1 và các con nghiện cho ma túy để sử dụng. Cụ thể: Trong khoảng thời gian từ giữa tháng 9/2018 đến ngày 18/10/2019, trên địa bàn thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương, H đã bán ma túy cho các con nghiện gồm:

1. Vũ Phúc T2, sinh năm 1990; ngụ tại khu phố B, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương mua 04 lần tại nhà của T2, mỗi lần 01 gói với giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng.

2. Thạch T3, sinh năm 2000; ngụ tại khu phố A, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương mua 08 lần tại nhà của H, mỗi lần giá 200.000 đồng và sử dụng ma túy tại đây.

3. Thạch T4, sinh năm 1998; ngụ tại khu phố A, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương mua 03 lần tại nhà của H, mỗi lần mua với giá 50.000 đồng đến 100.000 đồng.

4. Nguyễn Công T5, sinh năm 1984, ngụ tại khu phố B, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương mua 02 lần tại nhà của H, mỗi lần mua giá 200.000 đồng.

5. Nguyễn Hữu Lợi H1, sinh năm 1993; ngụ tại khu phố C, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương mua 02 lần tại nhà của H, một lần giá 130.000 đồng, một lần giá 160.000 đồng.

6. Mai Văn M1, sinh năm 1984; ngụ tại khu phố G, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương mua 02 lần nhà của H, một lần giá 200.000 đồng, một lần giá 300.000 đồng. Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 18/10/2019, Trần Minh H1 gọi điện thoại và kêu H đến khu vực bờ sông thuộc ấp I, xã I1, huyện D, tỉnh Bình Dương để gặp đối tượng I2 (không rõ nhân thân, lai lịch) nhận 01 gói ma túy. H đến gặp I2 lấy ma túy và đem về nhà cất giấu trong phòng khách với mục đích để bán lại cho các con nghiện.

Khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, Mai Văn M1 điện thoại cho H hỏi mua 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng thì H đồng ý bán. Nhưng do gói ma túy H đang cất giấu tại nhà chưa được chia ra thành những phần nhỏ để bán nên H điện thoại cho H1 và nói H1 đưa ma túy để H bán cho M1 thì H1 đồng ý và hẹn H tại khu vực ngã tư Sân bay thuộc khu phố K, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương để đưa ma túy cho H.

Sau khi lấy được ma túy, H cất ma túy trong người và điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius màu đen-đỏ, biển số 61H1-091.47, số máy 5C63-575328, số khung: C630BY575265 đến quán cà phê T-P tại khu phố N, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương để bán cho M1. Tuy nhiên, khi vừa đến quán cà phê T-P thì H bị trinh sát Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an huyện D phát hiện và bắt quả tang cùng tang vật gồm:

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius màu đen-đỏ, biển số 61H1-091.47, số máy 5C63-575328, số khung: C630BY575265.

- 01 điện thoại Titel màu đen, số IMEI: 351980105255184, kèm theo 01 sim Viettel có số seri: 8984048000058269524.

- 01 quẹt gas.

- 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng được niêm phong trong bì thư hàn kín có chữ ký của cán bộ niêm phong Nguyễn Trung T6 và người chứng kiến Nguyễn Văn H, ký hiệu M1.

Qua điều tra xác định, bị cáo Nguyễn Văn H dùng điện thoại để liên lạc với đối tượng Trần Minh H1 và các đối tượng nghiện ma túy. Tuy nhiên, bị cáo H không nhớ số điện thoại của các đối tượng này, đồng thời Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Bình Dương tiến hành kiểm tra điện thoại Titel màu đen, số IMEI: 351980105255184 của bị cáo H nhưng không thu được thông tin liên lạc nên không có căn cứ xử lý.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Bình Dương ban hành Lệnh khám xét khẩn cấp số 05/LKX ngày 18/10/2019 và tiến hành khám xét nơi ở của bị cáo Hải tại khu phố A, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương và thu giữ các tang vật như sau:

- 01 (một) gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng được cất giấu dưới bình hoa đặt tại phòng khách của ngôi nhà.

- 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.

- 16 (mười sáu) đoạn ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy.

- 02 (hai) nỏ bằng thủy tinh.

- 01 (một) kéo bằng kim loại.

- 05 (năm) gói nylon rỗng.

- 03 (ba) quẹt gas đã qua sử dụng.

Ngày 19/10/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D ra Quyết định trưng cầu giám định số 203/QĐ gửi đến Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương giám định 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng được niêm phong trong bì thư dán kín có chữ ký của cán bộ niêm phong Nguyễn Trung t6, đối tượng bị bắt Nguyễn Văn H (ký hiệu M1) và 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng được niêm phong trong bì thư dán kín có chữ ký của cán bộ niêm phong Lê Minh T7, đối tượng bị bắt Nguyễn Văn H (ký hiệu M2).

Kết luận giám định số 776/MT-PC09 ngày 22/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,1423 gam (M1) và 2,3572 gam (M2) loại Methamphetamine.

Đối với hành vi của Trần Thanh Đ bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Nguyễn Văn H. Quá trình điều tra xác định, hiện tại Đ đang bị Cơ quan cảnh sát điều tra khởi tố, điều tra về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” xảy ra ngày 05/02/2020 tại khu phố A, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương. Đồng thời tại thời điểm truy tố Nguyễn Văn H chưa đủ cơ sở để xử lý hành vi của Đ. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý.

Đối với các đối tượng Trần Minh H1 và I2. Do quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Văn H không xác định được nhân thân, lai lịch của H1, I2. Đồng thời, ngoài lời khai của bị cáo H, không có căn cứ nào khác để xác định được H1, I2 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Bình Dương không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý.

Đối với các đối tượng J, J1. Qua làm việc, bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận bán ma túy cho J, J1. Tuy nhiên, quá trình điều tra J và J1 đã đi khỏi địa phương, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Ngày 17/2/2020, Công an huyện D ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 17/QĐ, 18/QĐ, 19/QĐ, 20/QĐ, 21/QĐ, 22/QĐ, đối với Mai Văn M1, Nguyễn Công T2, Nguyễn Hữu Lợi H1, Thạch T3, Thạch T4, Vũ Phúc T5 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius màu đen-đỏ, biển số 61H1- 091.47, số máy 5C63-575328, số khung: C630BY575265. Quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do bà Huỳnh Thị Thanh X, sinh năm 1983, nơi thường trú: ấp E, xã E1, huyện D, tỉnh Bình Dương là người đứng tên chủ sở hữu. Vào khoảng tháng 6/2019, bà X đưa xe mô tô nêu trên cho con ruột là Trịnh Thị Thanh T1, sinh năm 2001 sử dụng. Khoảng giữa tháng 9/2019 T1 thường xuyên cho bị cáo Nguyễn Văn H mượn xe mô tô trên làm phương tiện đi lại. Ngày 18/10/2019, bị cáo H mượn xe của bà T1 để đi công việc. Bà T1 không biết việc bị cáo H sử dụng xe mô tô trên để đi mua và bán trái phép chất ma túy. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, đề nghị tuyên trả cho bà Huỳnh Thị Thanh X là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô nêu trên.

Đối với 01 điện thoại hiệu Itel màu đen, số IMEI: 351980105255184, kèm theo 01 sim Viettel có số seri: 8984048000058269524. Xét thấy, bị cáo Nguyễn Văn H dùng điện thoại này để liên lạc với các con nghiện mua bán ma túy nên là phương tiện thực hiện tội phạm. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 03 quẹt gas; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 16 đoạn ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy; 02 nỏ bằng thủy tinh; 01 kéo bằng kim loại; 05 gói nylon rỗng. Quá trình điều tra, xác định đây là dụng cụ mà bị cáo Nguyễn Văn H dùng để sử dụng ma túy. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với bì thư bên trong chứa 0,1056 gam (M1) và 2,3063 (M2) gam ma túy (khối lượng sau khi giám định) loại Methamphetamine được niêm phong số 776/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Xét thấy, đây là tang vật của vụ án. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Bình Dương chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Tại bản Cáo trạng số 15/CT-VKSDT-HS ngày 17/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương trong phần tranh tụng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 101 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 07 (bảy ) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Đối với hành vi của Trần Thanh Đ bán trái phép chất ma túy cho bị cáo H Quá trình điều tra xác định, hiện tại Đương đang bị khởi tố, điều tra về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đồng thời, tại thời điểm truy tố bị cáo H chưa đủ cơ sở để xử lý hành vi của Đ. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý. Đối với các đối tượng Trần Minh H1 và I2. Do quá trình điều tra bị cáo H không xác định được nhân thân, lai lịch của H, I2. Đồng thời, ngoài lời khai của bị cáo H, không có căn cứ nào khác để xác định được H1, I2 nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Bình Dương không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý.

Đối với các đối tượng J, J1. Qúa trình điều tra, bị cáo H khai nhận bán ma túy cho J, J1. Tuy nhiên, quá trình điều tra J và J1 đã đi khỏi địa phương, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Ngày 17/2/2020, Công an huyện D ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 17/QĐ, 18/QĐ, 19/QĐ, 20/QĐ, 21/QĐ, 22/QĐ, đối với Mai Văn M1, Nguyễn Công T2, Nguyễn Hữu Lợi H1, Thạch T3, Thạch T4, Vũ Phúc T5 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đề nghị xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius màu đen-đỏ, biển số 61H1- 091.47, số máy 5C63-575328, số khung: C630BY575265. Quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do bà Huỳnh Thị Thanh X, sinh năm 1983, nơi thường trú: ấp E, xã E1, huyện D, tỉnh Bình Dương là người đứng tên chủ sở hữu. Vào khoảng tháng 6/2019, bà X đưa xe mô tô trên cho con ruột là Trịnh Thị Thanh T1, sinh năm 2001 sử dụng. Khoảng giữa tháng 9/2019 bà T1 thường xuyên cho bị cáo H mượn xe mô tô trên làm phương tiện đi lại. Ngày 18/10/2019, H mượn xe của bà T1 để đi công việc. Bà T1 không biết việc H sử dụng xe mô tô trên để đi mua và bán trái phép chất ma túy. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, đề nghị tuyên trả cho bà Huỳnh Thị Thanh X là chủ sở hữu hợp pháp của xe mô tô nêu trên.

Đối với 01 điện thoại hiệu Itel màu đen, số IMEI: 351980105255184, kèm theo 01 sim Viettel có số seri: 8984048000058269524. Xét thấy, bị cáo H dùng điện thoại này để liên lạc với các con nghiện mua bán ma túy nên là phương tiện thực hiện tội phạm. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 03 quẹt gas; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 16 đoạn ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy; 02 nỏ bằng thủy tinh; 01 kéo bằng kim loại; 05 gói nylon rỗng. Quá trình điều tra, xác định đây là dụng cụ mà bị cáo H dùng để sử dụng ma túy. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với bì thư bên trong chứa 0,1056 gam (M1) và 2,3063 gam (M2) ma túy (khối lượng sau khi giám định) loại Methamphetamine được niêm phong số 776/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Xét thấy, đây là tang vật của vụ án. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Bình Dương chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Tại bản luận cứ bào chữa của người bào chữa chỉ định cho bị cáo H: Luật sư Lê Thị L có ý kiến: Bị cáo H khi phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi do không hiểu biết pháp luật nên đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Xét về điều kiện, hoàn cảnh phạm tội của bị cáo H chỉ vì muốn có tiền để sử dụng ma túy nên đã thực hiện hành vi “mua bán trái phép chất ma túy”. Hậu quả, bị cáo H phải chịu sự trừng trị của pháp luật. Tuy nhiên, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo H được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo H có điều kiện tự cải tạo làm công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội. Mặc khác, trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo H tỏa ra ăn năn, hối cải. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo H được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Điều 51; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo H.

Đại diện Viện Kiểm sát thống nhất với bản luận cứ bào chữa của người bào chữa chỉ định cho bị cáo H nên không có ý kiến tranh luận đối đáp gì thêm.

Tại phiên tòa, bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo làm công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo, người bào chữa chỉ định cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 18/10/2019, bị cáo H chuẩn bị bán ma túy cho con nghiện tại quán nước giải khát T-P thuộc khu phố N, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương thì Công an huyện D, tỉnh Bình Dương bắt quả tang. Sau khi khám xét Công an huyện D thu giữ được 01 (một) gói nilon hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng được niêm phong có ký hiệu M1, cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra ban hành lệnh khám xét khẩn cấp nhà của bị cáo H và thu giữ 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng được niêm phong có ký hiệu M2. Ngày 19/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D ra Quyết định trưng cầu giám định đối với 02 gói nilon chứa tinh thể trắng có ký hiệu M1, M2 thu giữ tại hiện trường và tại nhà của bị cáo H đến Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tình Bình Dương. Tại bản kết luận số: 776/MT-PC09 ngày 22/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,1423 gam (ký hiệu M1) và 2,3572 gam (có ký hiệu M2) cùng là loại Methamphetaminne để bán cho các con nghiện nhiều lần từ giữa tháng 9/2019 cho đến ngày bị bắt.

Lời khai nhận của bị cáo H phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận bản Cáo trạng số: 15/CT-VKSDT-HS ngày 17/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi, mức độ phạm tội của bị cáo H rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo H biết chất ma túy là loại chất gây nghiện mà Nhà nước cấm sử dụng, là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều căn bệnh hiểm nghèo, kéo theo nhiều tệ nạn xã hội. Bị cáo tuổi đời còn trẻ nhưng bản chất lười lao động muốn có tiền để tiêu xài và thỏa mãn nhu cầu cá nhân mà không phải lao động nên bị cáo H đã mua và bán ma túy cho các con nghiện nhiều lần nên đã phạm vào tội “mua bán trái phép chất ma túy” với mức độ nghiêm trọng và nguy hiểm hơn. Bị cáo H khi phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức pháp luật còn hạn chế nhưng bị cáo biết được chất ma túy là chất gây nghiện mà nhà nước cấm sử dụng, bị cáo H có đầy đủ năng lực nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện, thể hiện bản chất xem thường pháp luật, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án.

Đối với đối tượng Trần Minh H1, I2, J, J1 là người mua ma túy của bị cáo H Cơ quan cảnh sát điều tra không xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Bình Dương không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý; khi nào điều tra được sẽ xử lý sau là phù hợp quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng Trần Thanh Đ, bán trái phép chất ma túy cho bị cáo H. Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố bị cáo H do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Bình Dương không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý để xử lý hành vi bán ma túy của Đ cho bị cáo H. hiện tại Trần Thanh Đ đang bị khởi tố, điều tra về tội “tàng trử trái phép chất ma túy”. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ hành vi của Đ có đủ căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp quy định của pháp luật.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của các đối tượng Mai Văn M1, Nguyễn Công T2, Nguyễn Hữu Lợi H1, Thạch T3, Thạch T4, Vũ Phúc T5. Ngày 17/02/2020, Công an huyện Dầu Tiếng ban hành các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 17/QĐ, 18/QĐ, 19/QĐ, 20/QĐ, 21/QĐ, 22/QĐ, là phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Để đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mà đặc biệt là tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung nên cần xử lý bị cáo H mức hình phạt thật nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm có điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân tốt, cũng như phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H không có.

[6] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo H có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự để xem xét hình phạt phù hợp đối với bị cáo H.

[7] Xét bản luận cứ bào chữa của người bào chữa chỉ định cho bị cáo H và ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và điều luật đề nghị áp dụng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius màu đen-đỏ, biển số 61H1-091.47, số máy 5C63-575328, số khung: C630BY575265. Quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do bà Huỳnh Thị Thanh X là người đứng tên chủ sở hữu.

Bà X giao xe mô tô trên cho con ruột là Trịnh Thị Thanh T1. Ngày 18/10/2019, bà T1 cho bị cáo H mượn xe mô tô nêu trên để đi công việc. Bà T1 không biết việc bị cáo H sử dụng xe mô tô nêu trên để đi mua và bán trái phép chất ma túy. Xét thấy, đây là tài sản hợp pháp của bà Huỳnh Thị Thanh X nên trả lại cho bà X.

Đối với 01 (một) điện thoại hiệu Itel màu đen, số IMEI: 351980105255184, kèm theo 01 sim Viettel có số seri: 8984048000058269524. Bị cáo H dùng để liên lạc khi mua và bán ma túy cho các con nghiện. Xét thấy, đây là phương tiện thực hiện tội phạm nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 03 (ba) quẹt gas; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 16 đoạn ống thủy tinh dùng để sử dụng ma túy; 02 nỏ bằng thủy tinh; 01 kéo bằng kim loại; 05 gói nylon rỗng. Xét thấy, đây là tang vật của vụ án nên tịch thu tiêu hủy. Đối với bì thư bên trong chứa 0,1056 gam (M1) và 2,3063 (M2) gam ma túy (khối lượng sau khi giám định) loại Methamphetamine được niêm phong số 776/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Xét thấy, đây là tang vật của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 46; 47; 90; 91 khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào các Điều 106, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1, 2, 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2020 và được khấu trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 18/10/2019 đến ngày 27/10/2019.

2. Về vật chứng:

- Trả cho bà Huỳnh Thị Thanh X 01 (một) xe mô tô, hiệu Yamaha, loại Sirius màu đỏ đen, biển số 61H1-091.47, số máy: 5C63-575328; số khung: C630BY575265.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Ttel, màu đen, số IMEI: 351980105255184; 01 (một) sim Viettel có số seri: 898404000058269524.

- Tịch thu tiêu hủy: 03 (ba) quẹt gas; 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 16 (mười sáu) đoạn ống thủy dùng để sử dụng ma túy; 02 (hai) nỏ bằng thủy tinh; 01 (một) kéo bằng kim loại; 05 (năm) gói nylon rỗng; 01 (một) bì thư bên trong chứa 0,1056 gam (M1) và 2,3063 gam (M2) ma túy (khối lượng sau giám định) loại Methamphetamine được niêm phong số 776/PC09 và mộc đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, cán bộ niêm phong Nguyễn Trung T6, người chứng kiến Nguyễn Văn H.

(Các vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/4/2020).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 28/5/2020).

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về