Bản án 23/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2020/HSST ngày 09/3/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2020, Thông báo thay đổi lịch xét xử số 03/2020/TB-TA ngày 03/4/2020, Thông báo về thời gian mở lại phiên tòa ngày 17 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Đình K, sinh ngày 23/02/2001;

Trú tại: Thôn T, xã T, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đặng Đình T (đã chết) và bà Đặng Thị C. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án: Không Tiền sự: Quyết định số 91 QĐ-XPVPHC ngày 20/5/2019, Công an huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc. Hình thức phạt tiền 350.000đ. Đã nộp tiền phạt ngày 26/12/2019.

Nhân thân: Tại bản án số 16/2020/HSST ngày 28/02/2020, Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt 01(một năm) 09 (chín tháng) tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị tạm giữ từ ngày 28/12/2019 đến ngày 31/12/2019 chuyển tạm giam đến nay tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Chi - Trợ giúp viên pháp lý trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Người bị hại:

+ Ông Đinh Xuân N, sinh năm 1969;

+ Bà Trần Thị V, sinh năm 1972;

Đều trú tại: Thôn T, xã T, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Phạm Văn H, sinh năm 1983.

Trú tại: Thôn Q, xã T, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Đình K không có việc làm ổn định, do không có tiền chi tiêu cá nhân. Tối ngày 27/12/2019, Lê Xuân K (theo lời khai của K) sinh năm 1995 ở thôn B- xã T- huyện Thái Thụy- tỉnh Thái Bình sang rủ K đi trộm cắp tài sản. Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 28/12/2019, K điều khiển xe máy Honda WaveS biển kiểm soát 15N1-...38 đến nhà, chở K đi trộm cắp tài sản. Khi đi, K mang theo bộ vam gồm 01 thanh kim loại dài 7cm một đầu dạng lục lăng, một đầu được mài vát, 01 tròng kim loại dài 14 cm. Đến khoảng 07giờ 20 phút cùng ngày, K và K đi đến cổng nhà anh Đào Tiến Đ ở thôn Q, xã T, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, quan sát thấy có 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 34B3-....36 của anh Đinh Xuân N dựng trước cổng không có người trông coi; K dừng xe đứng cảnh giới, K xuống xe đi đến vị trí để xe máy dùng vam phá ổ khóa điện chiếc xe máy rồi dong xe ra đường nổ máy đi về. Khi K và K đi đến khu vực xã Quang Trung, huyện Tứ Kỳ thì bị tổ công tác lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Tứ Kỳ đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát yêu cầu dừng xe kiểm tra. Thấy vậy, K bỏ lại chiếc xe máy Honda WaveS biển kiểm soát 15N1-...38 chạy trốn, Tổ công tác đã bắt giữ K cùng vật chứng là chiếc xe máy vừa trộm cắp.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 03/KL-ĐGTS ngày 31/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện Tứ Kỳ kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển kiểm soát 34B3-....36 tại thời điểm ngày 28/12/2019 có giá trị là 9.500.000đ (Chín triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 21/CT-VKSTK ngày 05/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo Đặng Đình K ra trước tòa để xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 56 BLHS. Tuyên bố bị cáo Đặng Đình K phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt Đặng Đình K từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2019; tổng hợp 01(một năm) 09 (chín tháng) tù tại bản án số 16/2020/HSST ngày 28/02/2020, của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, buộc bị cáo K phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với K, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Vật chứng đề nghị tịch thu cho tiêu hủy.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tính chất hành vi phạm tội và hoàn cảnh gia đình bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất và miễn án phí cho bị cáo.

Người bị hại không yêu cầu bồi thường về trách nhiệm dân sự; Về trách nhiệm hình sự, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07 giờ 20 phút, ngày 28/12/2019, tại cổng nhà anh Đào Tiến Đ ở thôn Q, xã T, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, bị cáo Đặng Đình K đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Đinh Xuân N 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen, biển kiểm soát 34B3-....36, trị giá tài sản là 9.500.000đ (chín triệu năm trăm nghìn đồng).

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo ra trước tòa để xét xử với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, cần phải được xử lý theo quy định pháp luật.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, điều kiện nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là người có nhân thân không tốt. Ngày 20/5/2019, bị Công an huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc. Ngày 28/02/2020, Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt 01(một năm) 09 (chín tháng) tù về tội Trộm cắp tài sản, điều đó chứng tỏ bị cáo là người coi thường pháp luật. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tài sản trộm cắp đã được thu hồi trả cho người bị hại; người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS. Hội đồng xét xử sẽ xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, nhưng căn cứ vào nhân thân vẫn cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để chấp hành hình phạt tù mới đủ tác dụng giáo dục riêng bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung. Do bản án số 16/2020/HSST ngày 28/02/2020, Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình đã có hiệu lực pháp luật nên cần phải tổng hợp, buộc bị cáo K phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[8] Vật chứng: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển kiểm soát 34B3-....36, 01 đăng ký xe mang tên bà Trần Thị V, địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện Tứ Kỳ, Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an huyện Tứ Kỳ đã trả lại ông Đinh Xuân N và bà Trần Thị V là chủ sở hữu hợp pháp. 01 bộ vam phá khóa gồm: 01 thanh kim loại, 01 tròng kim loại cần tịch thu cho tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda WaveS màu đen có số khung HC12049Y531455, số máy HC12E- 1575650, qua xác minh xác định chiếc xe máy trên có biển kiểm soát thật là 16N7-..46, đăng ký mang tên ông Phạm Văn H, sinh năm 1956, trú tại: thôn 12, xã H, huyện V, TP. Hải Phòng. Ông H bị trộm cắp vào tháng 9/2019. Đối với chiếc biển kiểm soát 15N1-...38 xác minh là biển kiểm soát của chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter của anh Trần Mạnh D ở thôn Q, xã M, huyện An Lão, TP. Hải Phòng, anh D bị trộm cắp vào tháng 8/2019. Sau khi bị mất tài sản ông H, anh D không trình báo với Cơ quan Công an. Qua tra cứu chiếc xe máy hiệu Honda WaveS không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ngày 18/02/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tứ Kỳ đã trả lại 01 xe mô tô hiệu Honda WaveS màu đen cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Phạm Văn H và trả lại 01 biển số xe 15N1-...38 cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Mạnh D. Đồng thời có công văn trao đổi thông tin tội phạm gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Lão và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng để tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Đinh Xuân N, bà Trần Thị V đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Lê Xuân K (theo lời khai của Đặng Đình K), quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã xác minh. Tuy nhiên do K không có mặt tại địa phương, nên chưa đủ căn cứ để K tố bị can đối với K về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 20/02/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Tứ Kỳ đã ra Quyết định tách vụ án hình sự để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 56 BLHS;

1.Tuyên bố: Bị cáo Đặng Đình K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Đình K 09 (chín) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 01(một năm) 09 (chín tháng) tù, tại bản án số 16/2020/HSST ngày 28/02/2020, Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; buộc bị cáo Đặng Đình K phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án trên là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2019.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS. Tịch thu cho tiêu hủy 01 bộ vam phá khóa gồm 01 thanh kim loại dài 7cm một đầu dạng lục lăng, một đầu được mài vát, 01 tròng kim loại dài 14 cm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/3/2020 đã ghi.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Đặng Đình K được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về