Bản án 23/2020/HS-ST ngày 24/07/2020 về tội vô ý làm chết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 24/07/2020 VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI

 Trong ngày 24 tháng 7 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2020/TLST-HS, ngày 15 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lương Ngọc Th; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 14 tháng 4 năm 1962 tại tỉnh Cao Bằng; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn NG, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/10; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Văn H và bà Hoàng Thị A (đều đã chết); Có vợ là La Thị Đ, sinh năm 1959; Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1984, con nhỏ nhất sinh năm 2001; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/01/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Khánh T; Tên gọi khác: Không có; Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1980 tại tỉnh Bắc Kạn; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn B, xã CG, huyện BT, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đăng B (đã chết) và bà Nguyễn Thị TH, sinh năm 1955; Có vợ là Hoàng Thị H, sinh năm 1980; Có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/01/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

1/ Ma Hoàng D, sinh năm 2009, trú tại: Thôn NG, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn (đã chết) 2/ Ma Hoàng A1 Nguyên, sinh năm 2015, trú tại: Thôn NG, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn (đã chết) Người đại diện cho người bị hại Ma Hoàng D và Ma Hoàng A1 Nguyên: Ông Ma Văn K – sinh năm 1987; Địa chỉ: Thôn NG, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

3/ Ông Hoàng Văn V – sinh năm 1951; Địa chỉ: Thôn NG, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Lương Ngọc Th:

Bà Nông Thị Chiên - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Ma Thị N, sinh năm 1984; Địa chỉ: Thôn NG, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.

2/ Ông Lưu Quốc Tr, sinh năm 1977; Địa chỉ: Tổ 10B, Phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.

3/ Ma Văn H3, sinh năm 1976; Địa chỉ: Tiểu khu 10, thị trấn C, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.

4/ Hà Thị B, sinh năm 1984, Địa chỉ: Thôn P, xã TG, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.

5/ Ma Thị H1, sinh năm 1982; Địa chỉ: Tổ 5, Phường N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.

6/ Triệu Văn N2, sinh năm 1960; Thôn L, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.

7/ Trịnh Thị Th, sinh năm 1983; Thôn N, xã T, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.

8/ Nguyễn Tiến T3, sinh năm 1991; Địa chỉ: Khu 4, xã TC, huyện TN, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng giữa năm 2018, Lương Ngọc Th, sinh năm 1962, trú tại: Thôn NG, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn có nhu cầu san ủi đất để hạ nền nhà tại thửa đất 257, tờ bản đồ số 29, với diện tích 2541m2 mà hộ gia đình đang sử dụng với lý do căn nhà của hộ gia đình đang ở dựng trên taluy cao cách mặt đường khoảng 15 mét, khu đất hai bên liền kề đã san ủi nên không có đường đi lại, có nguy cơ sạt lở (đã sạt lở 02 lần) có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống sinh hoạt và tài sản của gia đình. Do không có đủ điều kiện kinh tế để thực hiện nên ngày 19/8/2018 Lương Ngọc Th đã ký thỏa thuận với vợ chồng ông Nguyễn Hoàng Dũng và bà Ma Thị N, trú tại: thôn NG, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn về việc gia đình bà Ma Thị N sẽ chi trả T bộ chi phí san ủi khu đất, sau khi san ủi xong Lương Ngọc Th sẽ chia một nửa diện tích đất theo mặt bằng đã san ủi cho bà Ninh sử dụng, hồ sơ thủ tục xin cấp phép san ủi hai bên cùng hoàn thiện, việc thỏa thuận có người chứng kiến; ngoài nội dung trên hai bên không thỏa thuận nội dung khác.

Sau đó, Lương Ngọc Th và bà Ninh thống nhất thuê đơn vị thi công do Nguyễn Khánh T, sinh năm 1980, trú tại: thôn B, xã CG, huyện BT, tỉnh Bắc Kạn là công nhân Công ty TNHH MTV Hoàng Danh Bắc Kạn để thi công san ủi khu đất trên. Ngày 30/12/2018 Nguyễn Khánh T và Lương Ngọc Th ký kết Hợp đồng kinh tế về việc thuê san ủi và vận chuyển đất trị giá 315.000.000 đ (Ba trăm mười năm triệu đồng). Trong đó có quy định rõ trách nhiệm của bên B (đơn vị nhận thuê san ủi đất) phải đảm bảo về môi trường, an T lao động trong quá trình thi công. Cùng ngày, bà Ma Thị N và Nguyễn Khánh T cũng ký Hợp đồng kinh tế về việc chi trả chi phí san ủi và vận chuyển đất trị giá 315.000.000đ (Ba trăm mười lăm triệu đồng), hình thức thanh toán chia làm 02 lần: lần 1 tạm ứng trước 150.000.000đ (Một trăm lăm mươi triệu đồng), lần 2 thanh toán 165.000.000đ (Một trăm sáu mươi lăm triệu đồng) khi kết thúc và hoàn thiện công trình san ủi, trong đó cũng quy định trách nhiệm của bên B (bên thi công) phải đảm bảo về môi trường, an T lao động trong quá trình thi công.

Lương Ngọc Th và bà Ninh đã cùng nhau làm các thủ tục để xin cấp phép san ủi như: Đơn xin san ủi đất ngày 30/10/2018; Phương án thi công cải tạo mặt bằng và khai thác đất san, lấp; Giấy thỏa thuận về việc đổ đất để cải tạo mặt bằng ngày 28/02/2019 giữa Lương Ngọc Th và bà Nông Thị Dung, sinh năm 1981, trú tại: thôn Nà Viễn, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn. T bộ các loại giấy tờ trên do bà Ma Thị N giúp Lương Ngọc Th soạn thảo và đưa cho Lương Ngọc Th xem và đồng ý ký tên xác nhận vì bản thân Lương Ngọc Th là chủ đất. Tại đơn xin san ủi đất, phương án thi công cải tạo mặt bằng và khai thác đất san, lấp do Lương Ngọc Th ký đều cam kết: Không làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình xung quanh, đảm bảo việc thi công đúng ranh giới, độ sâu, đảm bảo an T trong thi công; tạo vách moong có độ nghiêng, không khai thác vách thẳng đứng, để chống sạt lở.

Sau khi UBND huyện BB có văn bản số 3047/UBND-VP, ngày 24/12/2019 về việc chấp thuận cho hộ gia đình Lương Ngọc Th san ủi đất. Nguyễn Khánh T đã trao đổi với ông Nguyễn Trọng Thắng (em ruột của T) là Giám đốc Công ty TNHH MTV Hoàng Danh Bắc Kạn về việc mượn phương tiện xe ô tô tải và 01 chiếc máy đào bánh xích màu vàng, nhãn hiệu DOOSAN, biển kiểm soát: 97XA-0463 của Công ty TNHH MTV Hoàng Danh Bắc Kạn (chiếc máy đào có giấy chứng nhận kiểm tra an T kỹ thuật còn hiệu lực đến ngày 20/07/2019) để tiến hành thi công đào và vận chuyển đất tại khu đất của Lương Ngọc Th, đồng thời Nguyễn Khánh T cũng trao đổi với Nguyễn Tiến T3, sinh năm 1991, trú tại; Khu 4, xã Tam Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ là công nhân của Công ty TNHH MTV Hoàng Danh Bắc Kạn về việc thuê Thực điều khiển chiếc máy đào đất, đất san ủi ra được chuyển đổ tại bãi đất của ông Hoàng Văn Thước . Ngày 22/02/2019, hoạt động thi công san ủi đất bắt đầu tiến hành, đất san ủi ra được chuyển đổ tại bãi đất của ông Hoàng Văn Thước. Với vai trò giám sát thi công Nguyễn Khánh T chỉ đạo Nguyễn Tiến T3 đào xúc đất theo ý của mình, đến hết ngày 02/03/2019 hoạt động san ủi đất tạm dừng do trời mưa, sau đó đến ngày 12/03/2019 lại tiếp tục thực hiện san ủi. Tuy nhiên, vào hồi 10 giờ 20 phút ngày 12/3/2019 đoàn liên ngành của UBND huyện BB kiểm tra yêu cầu tạm dừng thi công vì vị trí đổ đất dư thừa sau khi san ủi tại bãi đổ đất của ông Hoàng Văn Thước đang có tranh chấp với Lâm trường huyện BB nên phải tìm vị trí đổ đất khác (theo công văn số 561/UBND-VP ngày 07/3/2019 của Ủy ban nhân dân huyện BB về việc thực hiện tạm dừng thi công việc san ủi đất). Trong thời điểm này, Phòng Kinh tế và Hạ tầng thuộc Ủy ban nhân dân huyện BB có tiếp nhận và xem xét giải quyết đơn của bà Nông Thị Dung, trú tại thôn Nà Viễn, xã Y, huyện BB về việc xin đổ đất. Trên cơ sở tham mưu của cơ quan chuyên môn, ngày 13 tháng 3 năm 2019, UBND huyện BB có văn bản số 611/UBND-VP về việc chấp thuận cho hộ gia đình bà Nông Thị Dung được đổ đất, văn bản 611/UBND-VP không có nội dung liên quan đến việc cho hộ gia đình Lương Ngọc Th đổ đất. Do đang thi công dang dở và nắm được thông tin hộ gia đình bà Nông Thị Dung được Ủy ban nhân dân huyện chấp thuận cho đổ đất, nên Lương Ngọc Th và Nguyễn Khánh T cho rằng hoạt động thi công san ủi đất của mình được tiếp tục thực hiện và tiếp tục cho san ủi. Khoảng 20 giờ, ngày 14/3/2019, khi đang đào đất ở vị trí giáp ranh với phần đất taluy dương liền kề khu đất đang san ủi đã làm sạt lở đ ất taluy dương phía sau nhà ông Hoàng Văn V, sinh năm 1951, trú tại thôn NG, xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn, làm sập tường gạch phía sau căn nhà cấp IV của ông Hoàng Văn V. Hậu quả làm cháu Ma Hoàng D, sinh năm 2009 và cháu Ma Hoàng A1 Nguyên, sinh năm 2015 (cháu ngoại của ông Việt) đang ngủ trong nhà thì tử vong, gây hư hỏng một phần căn nhà cấp IV của ông Hoàng Văn V.

Tại bản kết luận giám định số 07, 08/KTHS-GĐPY ngày 27/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Nạn nhân Ma Hoàng A1 Nguyên bị hội chứng vùi lấp gây ngạt cơ học và chấn thương gây gẫy xương sườn, vỡ gan dẫn đến tử vong; Nạn nhân Ma Hoàng D bị chấn thương vùng ngực gây gẫy xương sườn số 2 bên trái; tổn thương phổi, màng phổi bên trái và bị hội chứng ngạt cơ học dẫn đến tử vong .

Tại Kết luận giám định tư pháp ngày 31 tháng 5 năm 2019 của Sở Xây dựng tỉnh Bắc Kạn, kết luận: Nguyên nhân gây sạt trượt ta luy phía sau nhà ông Hoàng Văn V do hoạt động thi công đào san đất của hộ liền kề đã không có quy trình, biện pháp đảm bảo an T và cảnh báo nguy cơ sạt lở có thể xảy ra cho công trình lân cận và việc thực tế thi công đào đất bằng máy đào đã thi công đào hết phần ranh giới đất tiếp giáp với đất nhà ông Hiền và đào gần như thẳng đứng (80°÷85°), sâu hơn cao độ nền nhà ông Việt, đã tác động trực tiếp làm phá vỡ liên kết của khối đất tự nhiên.

Tại kết luận định giá tài sản số 22 ngày 26/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện BB xác định: Căn nhà cấp IV đã bị đổ sập một phần vào ngày 14/3/2019 tại thôn NG, xã Y, huyện BB, có giá trị T bộ căn nhà là 179.255.000đ (Một trăm bảy mươi chín triệu, hai trăm năm mươi lăm nghìn đồng), Giá trị phần hư hỏng là 23.093.000đ (Hai mươi ba triệu, không trăm chín mươi ba nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKS-P1 ngày 11/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã truy tố các bị cáo Lương Ngọc Th, Nguyễn Khánh T về tội “Vô ý làm chết người” theo khoản 2 Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm”.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lương Ngọc Th, Nguyễn Khánh T phạm tội “Vô ý làm chết người”.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 128; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm i khoản 1 Điều 52 BLHS/2015. Xử phạt bị cáo Lương Ngọc Th từ 30 đến 36 tháng cải tạo không giam giữ; Không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Áp dụng khoản 2 Điều 128; Điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm i khoản 1 Điều 52 BLHS/2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Khánh T từ 30 đến 36 tháng cải tạo không giam giữ; Không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lương Ngọc Th và Nguyễn Khánh T không có ý kiến gì tranh luận. Người bào chữa cho bị cáo Lương Ngọc Th là bà Nông Thị Chiên – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn có ý kiến như sau: Người bào chữa khẳng định Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Vô ý làm chết người” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, đối với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Th, người bào chữa đề nghị Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm điểm x khoản 1 Điều 51 là “Người phạm tội là người có công với cách mạng” đối với bị cáo Th, áp dụng Điều 54, 36 của Bộ luật hình sự cho bị cáo Th được hưởng mức án nhẹ nhất và cải tạo địa phương, không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Th. Về phần trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bị vào và người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đ ã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có yêu cầu hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người trên.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại c ơ quan điều tra, Kết luận giám định, Kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định:

Do nhu cầu san ủi đất để ổn định cuộc sống sinh hoạt gia đình, sau khi được UBND huyện BB chấp thuận thì bị cáo Lương Ngọc Th đã ký hợp đồng thuê Nguyễn Khánh T thi công công việc san ủi đất, tại thửa đất 257, tờ bản đồ số 29, với diện tích 2541m2 thuộc địa phận thôn NG, xã Y, huyện BB. Quá trình thi công, Lương Ngọc Th với vai trò là chủ đất và Nguyễn Khánh T với vai trò chỉ đạo, giám sát, thực hiện thi công, đã chủ quan không có các biện pháp đảm bảo an T cho người và công trình lân cận, không thấy trước được khả năng sạt lở đất, thực tế thi công đào đất bằng máy đã đào hết phần ranh giới đất tiếp giáp với nhà ông Hoàng Văn V và đào gần như thẳng đứng, tác động trực tiếp làm vỡ liên kết của khối đất tự nhiên dẫn đến hậu quả vào tối ngày 14/3/2019 đất sạt lở và đổ xuống căn nhà cấp IV của ông Hoàng Văn V, tại thôn NG, xã Y, huyện BB, làm hư hỏng một phần căn nhà của ông Việt, làm hai cháu Ma Hoàng D, sinh năm 2009 và cháu Ma Hoàng A1 Nguyên, sinh năm 2015 đang ngủ trong nhà tử vong tại chỗ.

Hành vi của các bị cáo Lương Ngọc Th và Nguyễn Khánh T đủ yếu tố cấu thành tội “Vô ý làm chết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 128 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo Lương Ngọc Th và Nguyễn Khánh T đã xâm phạm đến quyền sống của con người, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an T xã hội tại địa phương. Tuy nhiên, các bị cáo đều không mong muốn sự việc xảy ra, việc làm hai cháu bé chết là do lỗi vô ý, do vậy Hội đồng xét xử sẽ xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để cân nhắc về mức hình phạt phù hợp đối với các bị cáo.

[4] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo:

Các bị cáo T, Th đều có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Sau khi vụ án xảy ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, đồng thời tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS/2015.

Ngoài ra, bị cáo Lương Ngọc Th tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ Quốc tế được hưởng chế độ trợ cấp một lần nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm x Điều 51 Bộ luật hình sự là “Người phạm tội là người có công với cách mạng”.

Bị cáo Nguyễn Khánh T có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ; Tại phiên tòa, đại diện cho người bị hại đã chết là ông Ma Văn K và người bị hại ông Hoàng Văn V cùng xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Do vậy cả hai bị cáo được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 52 BLHS/2015 là “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi”.

Xét thấy, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có đủ điều kiện để áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, ngoài ra các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng, vì vậy Hội đồng xét xử thấy việc cho các bị cáo được tự cải tạo tại địa phương cũng đủ để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung. Hội đồng xét xử quyết định mức án của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là không phù hợp.

Các bị cáo T, Th không có việc làm, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và trước khi mở phiên tòa người bị hại là ông Hoàng Văn V cùng người đại diện cho các bị hại đã chết là ông Ma Văn K và các bị cáo đã tự thỏa thuận bồi thường thiệt hại, tại phiên tòa sơ thẩm không ai có yêu cầu gì, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Ngày 15/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn đã ban hành Quyết định số 01/QĐ-VKS để xử lý vật chứng trả lại chiếc máy đào, biển kiểm soát 97XA-0463 cho ông Nguyễn Trọng Thắng – Giám đốc Công ty TNHH MTV Hoàng Danh Bắc Kạn là đúng quy định của pháp luật. Còn 01 Giấy chứng nhận kiểm định an T kỹ thuật của chiếc máy đào bánh xích; 01 (một) tập kẻ ngang “Sổ ghi chuyến” của hãn g Hải Tiến, loại 100 trang bên trong có 10 trang giấy có ghi các con số, chữ viết được đánh số thứ tự từ 01 đến 10 đã tạm giữ của Nguyễn Khánh T cần tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật .

[8] Đối với ông Lưu Quốc Tr là Phó Chủ tịch UBND huyện BB, trên cơ sở tham mưu của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện BB đã ký ban hành văn bản hướng dẫn công tác quản lý san ủi đất trên địa bàn huyện BB không có cơ sở pháp lý, nhưng căn cứ từ yêu cầu thực tế trong công tác quản lý hoạt động san ủi đất tại địa phương. Việc ban hành văn bản là cơ sở cho việc giải quyết chấp thuận cho hộ gia đình Lương Ngọc Th được thực hiện hoạt động san ủi đất hạ nền nhà. Đối với ông Ma Văn H3 là Trưởng phòng Kinh tế và Hạ tầng; Bà Hà Thị B là Phó Trưởng phòng Kinh tế và Hạ tầng; Bà Ma Thị H1 là chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi trường; Ông Triệu Văn N2 là Chủ tịch UBND xã Y; bà Trịnh Thị Th là công chức địa chính, đất đai thuộc UBND xã Y với vai trò là cán bộ, lãnh đạo các cơ quan chuyên môn được UBND huyện BB giao nhiệm vụ tham mưu, giải quyết đơn xin san ủi đất của hộ gia đình Lương Ngọc Th. Qua điều tra xác định, việc UBND huyện ban hành văn bản hướng dẫn san ủi đất trên địa bàn là nhằm đảm bảo công tác san ủi ở địa phương được quản lý chặt chẽ, thống nhất, không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả sạt lở đất làm chết người. Nên xác định hành vi của những người trên không có dấu hiệu tội phạm là có căn cứ.

Đối với bà Ma Thị N không phải là chủ khu đất, không trực tiếp theo dõi, chỉ đạo và có cam kết về trách nhiệm đảm bảo các biện pháp an T cùng ông Lương Ngọc Th khi thực hiện san ủi khu đất. Do đó, việc không xem xét trách nhiệm hình sự đối với bà Ma Thị N là có căn cứ.

Đối với Nguyễn Tiến T3 là người làm thuê và thực hiện công việc điều khiển máy đào xúc đất theo đúng sự chỉ đạo, giám sát của bị cáo Nguyễn Khánh T. Do đó, không xem xét trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Tiến T3 là đúng quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Lương Ngọc Th và Nguyễn Khánh T phạm tội “Vô ý làm chết người”.

2. Hình phạt:

- Áp dụng khoản 2 Điều 128; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 36 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt bị cáo Lương Ngọc Th 24 (Hai mươi bốn) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục, người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Lương Ngọc Th cho Ủy ban nhân dân xã Y, huyện BB, tỉnh Bắc Kạn giám sát, giáo dục. Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Lương Ngọc Th.

- Áp dụng khoản 2 Điều 128; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 36 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Khánh T 24 (Hai mươi bốn) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục, người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Nguyễn Khánh T cho Ủy ban nhân dân xã CG, huyện BT, tỉnh Bắc Kạn giám sát, giáo dục. Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Nguyễn Khánh T.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án các vật chứng sau: 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định an T kỹ thuật của chiếc máy đào bánh xích; 01 (một) tập kẻ ngang “Sổ ghi chuyến” của hãng Hải Tiến, loại 100 trang bên trong có 10 trang giấy có ghi các con số, chữ viết được đánh số thứ tự từ 01 đến 10 đã tạm giữ của bị cáo Nguyễn Khánh T.

4. Án phí:

Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Khánh T, Lương Ngọc Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo:

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo, người bị hại, người đại diện của bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án sao hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

321
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 23/2020/HS-ST ngày 24/07/2020 về tội vô ý làm chết người

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về