Bản án 23/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 24/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 23/2020/TLST- HS, ngày 23 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo:

Nguyễn Đình L, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 12 tháng 12 năm 1992 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T (Nguyễn Đình P), đã chết và con bà Hoàng Thị B; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 27/8/2013, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 06 tháng tù giam về tội Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, chấp hành xong các quyết định của bản án ngày 14/12/2013, đã được xóa án tích; bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/01/2020 đến nay; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nông Văn Ư, sinh năm: 1980; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 00 phút ngày 09/01/2020, Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại sân chùa T thuộc thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đình L đang có hành vi tàng trữ 01 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy ở trong túi áo khoác đằng trước bên trái đang mặc trên người.

Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy màu trắng có dòng kẻ ô ly bên trong có chứa cục chất bột màu trắng nghi là chất ma túy (được niêm phong).

Tạm giữ đồ vật sau:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng vàng đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Viettel, có IMEI: 358805059945***;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Vinaphone, có IMEI: 357341088968***;

+ 01 thẻ điều trị Methadone số 0250020*** mang tên Nguyễn Đình L.

Tại bản kết luận giám định số 61/KL-PC09 ngày 11/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất cục, bột màu trắng có trong 01 (một) gói giấy màu trắng có dòng kẻ ô ly thu giữ của Nguyễn Đình L gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,309 gam (đã trừ bì).

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đình L khai bản thân là người nghiện ma túy. Ngày 09/01/2020, Nguyễn Đình L đi ra khu vực thôn H, xã T, huyện V mua ma túy với người đàn ông tên Nông Trung T đem về sử dụng. Cơ quan điều tra Công an huyện Văn Lãng đã tiến hành đối chất giữa Nguyễn Đình L và Nông Trung T, nhưng T không thừa nhận được bán ma túy cho Nguyễn Đình L. Ngoài lời khai của Nguyễn Đình L không có căn cứ khác chứng minh hành vi bán trái phép chất ma túy của Nông Trung T, nên chưa đủ căn cứ khởi tố hình sự đối với Nông Trung T.

Với nội dung vụ án như trên, tại bản Cáo trạng số 22/CT-VKS, ngày 31/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Nguyễn Đình L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như bản Cáo trạng nêu, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Đại diện Viện kiểm sát đánh giá đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội như Cáo trạng truy tố, nên giữ nguyên kết luận truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo mức án từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Về xử lý vật chứng, áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2, 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong; 01 thẻ điều trị Methadone mang tên Nguyễn Đình L. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng vàng đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Viettel; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Vinaphone.

Bị cáo Nguyễn Đình L nhất trí với luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, không có lời bào chữa. Lời nói sau cùng, bị cáo nhận biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là sai phạm, bị cáo mong được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại các giai đoạn tố tụng, bị cáo yêu cầu cử Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn đã cử Luật sư Trần Xuân T cộng tác viên Trợ giúp pháp lý bào chữa cho bị cáo. Nhưng tại phiên tòa, Luật sư vắng mặt, bị cáo nộp đơn từ chối Luật sư, không yêu cầu cử người bào chữa nữa, bị cáo cho rằng bản thân phạm tội bị bắt quả tang, đã thành khẩn khai báo, tự có thể bào chữa; xét thấy bị cáo có quyền từ chối người bào chữa, nên chấp nhận.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có căn cứ xác định: Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 09/01/2020, tại thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn bị cáo Nguyễn Đình L có hành vi tàng trữ 0,309 gam heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

[4] Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Đình L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo như sau:

[6] Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về quản lý chất ma túy, làm mất trật tự xã hội, làm gia tăng tội phạm về ma túy, góp phần là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã biên giới, có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Bị cáo là người nghiện ma túy, đã 01 lần bị kết án.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã thực hiện, nên bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[10] Đánh giá các căn cứ quyết định hình phạt như trên, thấy cần thiết xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[11] Về hình phạt bổ sung: Qua kết quả xác minh của cơ quan điều tra tại Biên bản xác minh ngày 14/02/2020 thì bị cáo không sở hữu tài sản gì có giá trị, là người nghiện chất ma túy. Nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[12] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong, là vật cấm lưu hành trái phép. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng vàng đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Viettel; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Vinaphone; 01 thẻ điều trị Methadone mang tên Nguyễn Đình L do bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội.

[13] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[14] Đối với đối tượng Nông Trung T, bị cáo Nguyễn Đình L khai được nhiều lần mua ma túy với người này đem về sử dụng, nhưng quá trình điều tra vụ án Nông Trung T không thừa nhận được bán ma túy cho Nguyễn Đình L. Ngoài lời khai của Nguyễn Đình L, không có căn cứ khác chứng minh hành vi bán trái phép chất ma túy của Nông Trung T, nên chưa đủ căn cứ khởi tố hình sự đối với Nông Trung T; kiến nghị Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn tiếp tục điều tra, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý đối tượng theo quy định của pháp luật.

[15] Ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[16] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, khoản 1 khoản 2 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 1 khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam là 09/01/2020.

3. Xử lý vật chứng:

a) Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- Ma túy đã qua giám định đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn;

- 01 thẻ điều trị Methadone số 0250020740 mang tên Nguyễn Đình L. b) Trả lại bị cáo Nguyễn Đình L các tài sản sau:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng vàng đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Viettel, có IMEI: 358805059945***;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Vinaphone, có IMEI: 357341088968***.

(Các vật chứng trên đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/4/2020).

4. Án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Đình L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HS-ST ngày 24/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về