Bản án 23/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/HSST-QĐ ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Ngô Quốc T; tên gọi khác: M, sinh năm 1987 tại Bà Rịa – Vũng Tàu. HKTT: ấp P, xã T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Tạm trú: đường C, khu phố 6, phường P, thành phố B,tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Hòa T (chết) và bà Nguyễn Thị X; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 10-12-2019;tạm giam ngày 13-12-2019 đến nay tại nhà tạm giữ Công an thành phố B. (Có mặt) 

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1944; trú tại: khu phố P, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Vắng mặt)

2. Ông Huỳnh Văn A, sinh năm 1979; trú tại: khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

3. Ông Mai Tiến T, sinh năm 1982; trú tại: khu phố 1, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

4. Anh Nguyễn Nhật T, sinh năm 2002; trú tại: khu phố 2, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

5. Anh Hồ Quang C, sinh năm 2001; trú tại: Tổ 7, ấp 3, xã T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

- Người làm chứng:

1. Chị Huỳnh Thị Thảo N, sinh năm 2002; trú tại: thôn B, xã P, huyện B, tỉnh Bình Phước; tạm trú: thôn 1, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

 2. Chị Nguyễn Ngọc P, sinh năm 2002; trú tại: Tổ 34/107 khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

3. Phạm Văn T, sinh năm 1987; cư trú tại: đường Trần Hưng Đ, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

4. Lê Loan A, sinh năm 1982, cư trú tại: đường Phạm Ngọc T, phường P, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

5. Bà Nguyễn Thị H sinh năm 1968, cư trú tại: khu phố 6, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài và sử dụng ma túy, Ngô Quốc T đã mua ma túy về chia nhỏ bán lại cho các con nghiện khác để kiếm lời. Vào khoảng 02 giờ 40 phút ngày 10/12/2019, Công an phường P tiến hành kiểm tra phòng nghỉ số 201 Nhà Nghỉ Q (địa chỉ: khu phố 7, phường P, thành phố B) thì phát hiện Ngô Quốc T cùng Hồ Quang C; Nguyễn Nhật T và Huỳnh Thị Thảo N đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm: 01 đoạn ống nhựa hàn kín 02 đầu bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt; 01 ĐTDĐ Samsung màu vàng, Imei 357625/08/235040/9; 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen, Imei 353408095721229; 01 xe mô tô hiệu Vinawin màu nâu, biển số 72H1-057.63 và 1.300.000 đồng. Quá trình làm việc, C, Nhật T, Thảo N và Quốc T khai nhận ống ma túy thu giữ trên là của Quốc T mang đến để cả nhóm cùng sử dụng.

Tang vật thu giữ khi tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Ngô Quốc T gồm: 13 gói nylon bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt (thu giữ trong tủ gỗ); 02 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 02 ống thủy tinh; 01 cân tiểu ly; 01 bịch nylon bên trong có chứa 50 gói nylon màu trắng, đỏ; 01 bịch nylon bên trong có chứa 21 gói nylon nhỏ màu trắng, xanh; 01 kẹp màu trắng bằng kim loại; 01 kéo lưỡi kim loại màu trắng, tay cầm màu đỏ, đen; 14 gói nylon bên trong chứa chất kết tinh không màu trong suốt (thu giữ trong hộp nhựa màu đen trên nền nhà); số tiền 5.000.000 đồng và 01 xe mô tô hiệu Yamaha màu đỏ đen, biển số 72K6-4637, số máy 5C61-088998, số khung RLCS5C6107Y088998. (BL: 30 - 32) Tại cơ quan CSĐT Công an thành phố B, Ngô Quốc T khai nhận mua ma túy của T5 (không rõ lai lịch) 02 lần: lần thứ nhất vào khoảng hai tuần trước ngày bị bắt, mua ma túy của Tèo với giá 3.500.000 đồng; lần thứ hai vào ngày 08/10/2019 mua với giá 5.000.000 đồng; mỗi lần mua ma túy T5 chủ động liên lạc với Quốc T rồi gửi ma túy qua xe khách đến bến xe B, sau đó gặp Quốc T để lấy tiền. Ngoài mua ma túy của T5, Quốc T còn mua ma túy của P (không rõ nhân thân, lai lịch) tại khu vực huyện L khoảng 5 - 6 lần, mỗi lần từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng. Sau khi mua ma túy từ T5 và P, Quốc T đã bán nhiều lần cho các con nghiện kiếm tiền lời, cụ thể:

- Bán cho Mai Tiến T 03 lần: Lần thứ nhất vào khoảng cuối tháng 11/2019; Lần thứ hai vào ngày 02/12/2019; Lần thứ ba vào tối ngày 07/12/2019, mỗi lần 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng tại quán cà phê TH tại phường P, thành phố B. (BL: 60-61) - Bán cho Hồ Quang C 03 lần không nhớ cụ thể thời gian, lần gần nhất là vào tối ngày 09/12/2019 tại Nhà nghỉ Q, bán ma túy cho C với số tiền 100.000 đồng. (BL: 80-92) - Bán cho Nguyễn Nhật T nhiều lần không nhớ số lần và thời gian cụ thể, lần gần nhất vào khoảng 17 giờ ngày 07/12/2019 tại vòng xoay X, phường P, thành phố B, Quốc T bán ma túy cho T với số tiền 200.000 đồng. (BL: 70-73) Ngoài ra, Ngô Quốc T còn khai nhận đã bán ma túy cho các đối tượng tên T (nhà ở phường L) 02 đến 03 lần, mỗi lần từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng; bán cho B (nhà ở phường L) 01 đến 02 lần, mỗi lần từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng; bán cho Tr (nhà ở phường L) 03 lần, mỗi lần 200.000 đồng; T.U (nhà ở xã C) 02 lần, mỗi lần 200.000 đồng và nhiều người khác mà T không nhớ rõ. (BL: 179-180, 183-184) Tại bản kết luận giám định số 402/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 18/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận:

“1. Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 01 đoạn ống nhựa màu trắng – hàn kín hai đầu (mẫu A1), được niêm phong trong một phong bì đánh số 01, gửi đến giám định có khối lượng 0,0266 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

2. Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 13 gói nylon hàn kín (mẫu A2), được niêm phong trong một phong bì đánh số 02, gửi đến giám định có tổng khối lượng 9,8226 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

3. Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 14 gói nylon hàn kín (mẫu A3), được niêm phong trong một phong bì đánh số 03, gửi đến giám định có tổng khối lượng 3,5847 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra:

+ Đối với đối tượng T5 và P bán ma túy cho Ngô Quốc T, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Cơ quan điều tra công an thành phố B tiếp tục xác minh, khi có kết quả sẽ xử lý sau.

+ Đối với các đối tượng Hồ Quang C, Nguyễn Nhật T, Huỳnh Thị Thảo N, Nguyễn Ngọc P, Phạm Văn T và Mai Tiến T, Cơ quan Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Đối với bà Lê Loan A (Chủ nhà nghỉ Q) do thiếu trách nhiệm trong việc quản lý để khách lưu trú lợi dụng sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt hành chính.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng của vụ án:

Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ tại chỗ: 01 đoạn ống nhựa hàn kín 02 đầu bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt (thu giữ trên nệm tại nhà nghỉ Q); 01 ĐTDĐ hiệu Samsung màu vàng, Imei 357625/08/235040/9; 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu xanh đen, Imei 353408095721229; 01 xe mô tô biển số 72H1-057.63; Tiền mặt 1.300.000 đồng (thu giữ của bị cáo). Thu giữ trong quá trình khám xét khẩn cấp tại nhà bị cáo: Thu 13 gói nylon bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt; 02 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; 02 ống thủy tinh; 01 cân tiểu ly;

01 bịch nylon bên trong có chứa 50 gói nylon màu trắng, đỏ; 01 bịch nylon bên trong có chứa 21 gói nylon nhỏ màu trắng, xanh; 01 kẹp màu trắng bằng kim loại; 01 kéo lưỡi kim loại màu trắng, tay cầm màu đỏ, đen; 14 gói nylon bên trong chứa chất kết tinh không màu trong suốt; 01 hộp nhựa màu đen, kích thước 3 x 7cm; 5.000.000 đồng tiền mặt; 01 xe mô tô hiệu Yamaha biển số 72K6-4637. Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện đã chuyển Cơ quan Thi hành án bảo quản, chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKSBR ngày 23/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã truy tố Ngô Quốc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa hôm nay, trên cơ sở việc xét hỏi và tranh luận công khai, dân chủ thể hiện:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Ngô Quốc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 09 đến 10 năm tù; Về xử lý vật chứng: tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ, 02 bộ dụng cụ, 02 ống thủy tinh, 01 cân tiểu ly, 50 gói nylon, 21 gói nylon, 01 kẹp kim loại trắng, 01 lưỡi bằng kim loại, 01 hộp nhựa, 01 biển số 72K6- 4637; tịch thu sung công: 01 điện thoại hiệu Samsung, 01 xe mô tô hiệu Yamaha; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia, 01 xe mô tô hiệu Vinawin biển số 72H1-057.63 và 6.300.000 đồng. Hình phạt bổ sung: không áp dụng đối với bị cáo.

Ý kiến của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quan điểm luận tội của Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó đủ cơ sở kết luận:

[2.1] Khoảng 02 giờ 40 phút ngày 10/12/2019, Công an phường P, thành phố B kiểm tra nhà nghỉ Q thì phát hiện bắt quả tang Ngô Quốc T cùng Hồ Quang C, Nguyễn Nhật T và Huỳnh Thị Thảo N có hành vi tàng trữ trái phép 0,0266 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng. Số ma túy trên là của bị cáo T mang đến để cùng các đối tượng khác sử dụng thì bắt quả tang, do định lượng ma túy chưa đủ 0,1 gam nên chưa cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Công an thành phố B đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với các đối tượng trên.

[2.2] Khám xét khẩn cấp tại nhà bị cáo, Cơ quan điều tra đã thu giữ được tổng cộng 13,4073gam (9,8226gam + 3,5847gam) ma túy, loại Methamphetamine, bị cáo Ngô Quốc T khai nhận mua số ma túy trên của đối tượng tên T5 (không rõ nhân thân, lai lịch) tàng trữ tại nhà, mục đích là bán cho các con nghiện kiếm lời, cụ thể: Trong khoảng thời gian từ cuối tháng 11/2019 đến 09/12/2019 bị cáo đã bán cho Mai Tiến T 03 lần; Bán cho Hồ Quang C 03 lần; Bán cho Nguyễn Nhật T nhiều lần. Ngoài ra, bị cáo T còn khai nhận đã nhiều lần bán ma túy cho các đối tượng khác không rõ nhân thân, lai lịch, mỗi lần từ 100.000 đến 200.000 đồng; toàn bộ các lần bán ma túy đều trên địa bàn thành phố B. Bị cáo bán cho nhiều đối tượng nhưng không thực hiện bán cho nhiều người cùng một thời điểm. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng là “phạm tội 02 lần trở lên” và “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”, tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra: Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, vì ma túy là chất độc gây nghiện ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của con người, là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn và các tội phạm khác. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng vì mục đích muốn có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy mà đã bất chấp lao vào con đường phạm tội. Vì vậy, lần phạm tội này cần thiết phải có một hình phạt thật nghiêm, đủ sức giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hợp tác với cơ quan điều tra, tự thú các lần phạm tội trước đó, nên áp dụng các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với số ma túy đã thu giữ của bị cáo là tang vật của vụ án; 02 bộ dụng cụ dùng sử dụng ma túy; 02 ống thủy tinh; 01 cân tiểu ly; 01 bịch nylon bên trong có chứa 50 gói nylon màu trắng, đỏ; 01 bịch nylon bên trong có chứa 21 gói nylon nhỏ màu trắng, xanh; 01 kẹp màu trắng bằng kim loại; 01 kéo lưỡi kim loại màu trắng, tay cầm màu đỏ, đen; 01 hộp nhựa màu đen, kích thước 3 x 7cm. Đây là công cụ, phương tiện phục vụ cho việc mua bán sử dụng ma túy cần tiệc thu tiêu hủy.

+ Đối với ĐTDĐ hiệu Samsung bị cáo sử dụng vào việc mua bán ma túy; 01 xe mô tô hiệu Yamaha (gắn biển số 72K6-4637), qua xác minh thì biển số 72K6-4637 đứng tên ông Huỳnh Văn A, ông A khai nhận vào năm 2005 mua xe có biển số trên và mất trộm vào năm 2012, hiện nay ông A không có yêu cầu gì. Tiến hành tra cứu theo số máy: 5C61-088998, số khung: RLCS5C6107Y088998 thì dữ liệu xe này mang biển số 72L4-7013 (đứng tên ông Hồ Văn T), ông T hiện không sinh sống tại địa phương. Chiếc xe trên bị cáo khai mua xe của một thanh niên lạ và sử dụng xe này đi mua bán ma túy. Vì vậy, cần tịch thu điện thoại và chiếc xe trên sung công quỹ nhà nước. Tịch thu tiêu hủy biển số 72K6-4637;

+ Đối với ĐTDĐ Nokia; 01 xe mô tô hiệu Vinawin biển số 72H1- 057.63 (đứng tên ông Nguyễn Văn B, ông B đã bán xe và hiện không có yêu cầu gì), năm 2017 bị cáo mua xe của một người đàn ông làm phương tiện đi lại, tuy nhiên chưa làm thủ tục sang tên; tiền mặt 6.300.000 đồng. Toàn bộ vật dụng phương tiện, tiền thu giữ qua xác minh không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo có nghề nghiệp có thu nhập hàng tháng, nên cần áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

[7] Đối với các đối tượng tên T5 và P là người đã bán ma túy cho Ngô Quốc T, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, khi có kết quả sẽ xử lý sau.

Đối với các đối tượng sử dụng ma túy cùng bị cáo và bà A (chủ nhà nghị Q), Cơ quan Công an thành phố B đã tiến hành xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[9] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ngô Quốc T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngô Quốc T 09 năm tù (Chín năm tù), thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10-12-2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy được niêm phong trong 03 phong bì đánh số 402/1, 402/2, 402/3 ngày 18/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; 01 biển số 72K6-4637; 02 bộ dụng cụ dùng sử dụng ma túy; 02 ống thủy tinh; 01 cân tiểu ly; 01 bịch nylon bên trong có chứa 50 gói nylon màu trắng, đỏ; 01 bịch nylon bên trong có chứa 21 gói nylon nhỏ màu trắng, xanh; 01 kẹp màu trắng bằng kim loại; 01 kéo lưỡi kim loại màu trắng, tay cầm màu đỏ, đen; 01 hộp nhựa màu đen, kích thước 3 x 7cm.

- Tịch thu sung công: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng; 01 xe mô tô hiệu Yamaha màu đỏ đen (không biển số), số máy 5C61- 088998, số khung RLCS5C6107Y088998.

- Trả lại cho bị cáo Ngô Quốc T; 01 điệu thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen; 01 xe mô tô hiệu Vinawin biển số 72H1-057.63, số RPTDS150FMG00128489, số khung RPHDCGTUM5H12849 và số tiền 6.300.000 đồng.

(Vật chứng hiện lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27-4-2020)

3. Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự - Phạt bị cáo T 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) sung công quỹ nhà nước.

4. Về án phí: Buộc bị cáo T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

5. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm (Người vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 23/2020/HS-ST ngày 19/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về