Bản án 23/2020/HS-ST ngày 08/06/2020 về tội chống người thi hành công vụ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N H, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 08/06/2020 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Trong ngày 08-6-2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện NH, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2020/TLST-HS ngày 06-3- 2020, theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số: 16/2020/QĐXXST-HS, ngày 21-4- 2020, đối với bị cáo:

Đào Thanh Đ, sinh năm 1990, tại Bình Đ; trú tại: Thôn K, xã C, huyện PC, tỉnh Bình Đ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào H và bà Nguyễn Thị X; có vợ tên Huỳnh Thị BL; tiền án: Có 01 tiền án (ngày 30-12- 2014 bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Đ xử phạt 03 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”), tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-11-2019 đến ngày 09-01-2020 và được tại ngoại cho đến nay. (Có mặt).

- Người làm chứng:

+ Anh Đỗ Ngọc H, sinh năm 1984; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn NT xã ĐX, huyện NH, tỉnh Kon Tum. Hiện nay đang chấp Hành  án tại Trại giam Thanh Cẩm – Bộ Công an, đóng tại huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt).

+ Anh Bùi Xuân L, sinh năm 1989; trú tại: Tổ dân phố , thị trấn k, huyện N H, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

+ Anh Cao Xuân D, sinh năm 1980; công tác tại: Hạt Kiểm lâm huyện N H, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

+ Anh Vũ Văn Ch, sinh năm 1976; trú tại: Thôn NT xã ĐX, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt). + Anh Nguyễn Thế T, sinh năm 1986; trú tại: 319 Trần Phú, Tổ dân phố , thị trấn K, huyện NH, tỉnh Kon Tum. (Vắng mặt).

+ Anh Hoàng Quốc Đ, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ , phường T, tHnh phố H, tỉnh Hòa Bình. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 06-10-2016, Đỗ Ngọc H nhờ xe ô tô tải biển kiểm soát 82C-016.12 của anh Vũ Văn Ch chở một hộp gỗ dổi khối lượng 1,008m3 không có giấy tờ hợp pháp do H mua của Nguyễn Minh Cương ở thôn Iệc, xã Pờ Y về nH H ở thôn N, xã ĐX, huyện NH. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, anh C chở gỗ về đến nH H nhưng do hộp gỗ to, nặng và xe bị lầy không đưa xuống được nên H nói với anh C để xe và gỗ lại, đợi đến sáng hôm sau nhờ thêm người để đưa gỗ xuống. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, lực lượng liên ngành gồm (Kiểm lâm huyện NH, Công an xã ĐX, Công an huyện NH) phát hiện và lập biên bản vi phạm đối với số gỗ trên. Biết được sự việc, H gọi điện thoại cho Bùi Xuân L nói “Xe chở gỗ cho tao bị bắt, vào Đắk Xú giải quyết cho tao với”. Sau đó, H mượn xe ô tô bán tải biển số Lào 3056 của Nguyễn Thế T chở theo Hoàng Quốc Đ, Đặng Hữu Vũ, Bùi Xuân L đi xin lực lượng chức năng cho lấy gỗ và xe bị bắt. Khi không xin được, H liền có lời nói xúc phạm, chửi bới lực lượng liên ngành và không ký vào biên bản vi phạm.

Đến khoảng 10 giờ ngày 07-10-2016, H gọi điện thoại nhờ Nguyễn Chí Tâm, Đào Thanh Đ, Hoàng Quốc Đ, Bùi Xuân L, Võ THnh Công vào khiêng giúp hộp gỗ xuống để trả xe cho anh C. Sau đó, H điều khiển xe ô tô bán tải của Thanh chở Tâm, Đ, L, Vũ, Công đi từ thị trấn Plei Kần tới khu vực sân bay Đắk Xú thì gặp lực lượng liên ngành (gồm các anh: Lê Văn Hậu, Bùi Lưu Hoàng là cán bộ Công an huyện; Cao Xuân D, Bế Nguyễn Quang Tuyến, Bùi Thanh Bắc, Trần Hữu Nhất - cán bộ Hạt Kiểm lâm; A Te, A Thoàng, Kiều Quang Bảy, A Thoại, Nguyễn Minh Châu là dân quân xã; A Hước trưởng Công an xã ĐX) đang áp giải ô tô tải biển kiểm soát 82C-016.12 của anh Vũ Văn Ch đi về hướng Hạt Kiểm lâm huyện NH. Lúc này, H quay đầu xe đuổi theo. Khi vượt được lên phía trước, H cho xe mình ép xe của anh C dừng lại. Sau khi anh C dừng xe, H xuống xe đi đến nói với 05 cán bộ dân quân xã “Đây không phải việc của mấy ông, đây là việc của tôi, mấy ông đi về đi”, rồi quay sang cửa bên phụ chửi và đe dọa anh Cao Xuân D “Gỗ của tao, sao tụi mày chở”, “Chúng mày Đ cướp gỗ của tao à, đừng ép tao quá”. Thấy vậy, anh Diên xuống xe giải thích về việc đưa xe về Hạt Kiểm lâm xử lý, H không chấp nhận và tiếp tục chửi “Tao thách thằng nào đưa được xe ra khỏi đây”, “Hôm nay tao bán mạng cũng không để tụi mày lấy gỗ về” và nói với anh C “Ông chạy xe về nH tôi, thằng nào ngon thì về đó mà bắt”. Anh C không thực hiện yêu cầu của H mà để cho lực lượng liên ngành giải quyết. H tiếp tục chống đối, ngăn cản lực lượng liên ngành làm nhiệm vụ. Thấy vậy, L cũng đi đến chửi bới, đe dọa lực lượng liên ngành. Một lúc sau, H lên xe ô tô 82C-016.12 nổ máy nhằm chở gỗ đi cất giấu nhưng không vào số được. Lúc này, Đào Thanh Đ đang ngồi trên xe ô tô của Thanh nhìn qua gương chiếu hậu thấy H vẫy tay gọi mình, Đ xuống xe đi đến chỗ H. Tại đây, H nhờ Đ chạy xe giúp nên Đ điều khiển xe ô tô 82C-016.12 chạy theo sự chỉ đạo của H ra hướng thị trấn Plei Kần. L cũng lên xe bán tải cùng các đối tượng đi cùng chạy theo xe của H. Trong lúc quay đầu xe, L tiếp tục đe dọa lực lượng liên ngành “Thằng nào đuổi theo tao tông chết”, rồi nói với Hậu “Nói anh em đừng ép anh em tao quá, anh em xin xe gỗ từ đêm qua mà sao lại bắt”. Đ điều khiển xe đi đến lô cao su thuộc đội 8 Công ty 732 thì xe bị mắc lầy không đi được. Thấy vậy, H nhờ mọi người đẩy hộp gỗ xuống đất rồi Đ cho xe đi tiếp nhưng xe bị lầy không đi được nên H lấy tập hồ sơ của cán bộ kiểm lâm để trên xe anh C rồi cùng Đ bỏ xe và gỗ lại để lên xe bán tải của Thanh đi về nH trọ của H ở đường Hoàng Thị Loan, thị trấn Plei Kần.

Bản cáo trạng số: 13/CT-VKS ngày 04-3-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NH truy tố Đào Thanh Đ về tội “Chống người thi Hành  công vụ” theo khoản 1 Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo luôn tHnh khẩn khai báo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết Đ truy tố đối với Đào Thanh Đ, đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo phạm tội “Chống người thi Hành  công vụ”;

Áp dụng khoản 1 Điều 257, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999; xử phạt bị cáo Đào Thanh Đ mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi Hành  án, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam.

2. Về án phí: Đề nghị căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện NH và Viện kiểm sát nhân dân huyện NH đã thực hiện đầy đủ, đúng trình tự, thẩm quyền các thủ tục tiến Hành  tố tụng theo quy Đ của pháp luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa, người làm chứng – Đỗ Ngọc H và Cao Xuân D có đơn xin xét xử vắng mặt; Bùi Xuân L, Vũ Văn Ch, Nguyễn Thế T, Hoàng Quốc Đ vắng mặt không có lý do. Xét việc vắng mặt của những người này không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên, Hội đồng xét xử vẫn tiến Hành  xét xử.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Đào Thanh Đ khai nhận Hành  vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện NH đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở kết luận: Vào tối ngày 06-10-2016, trong khi Đỗ Ngọc H nhờ xe ô tô tải của anh Vũ Văn Ch chở 1,008m3 gỗ về nH H ở thôn Ngọc Thư, xã ĐX thì bị lực lượng liên ngành huyện NH lập biên bản vi phạm. Khi xin bỏ qua vi phạm không được thì H có lời nói xúc phạm, chửi bới lực lượng liên ngành. Đến trưa ngày 07-10-2016, H dùng xe ô tô bán tải của Nguyễn Thế T chở Đào Thanh Đ, Bùi Xuân L và một số người khác đi từ thị trấn Plei Kần vào nH H để giúp khiêng hộp gỗ xuống đất nhằm trả xe cho anh C. Khi xe do H điều khiển đi đến khu vực sân bay Đắk Xú thì gặp lực lượng liên ngành đang áp giải ô tô của anh C cùng số gỗ của H đang đi theo chiều ngược lại. Lúc này, H quay đầu xe đuổi theo, chặn xe anh C dừng lại rồi cùng L chửi bới, đe dọa làm cho lực lượng liên ngành không dám tiếp tục áp giải. Một lúc sau, H lên xe ô tô của anh C với mục đích chở gỗ đi cất giấu nhưng không vào số được nên ra hiệu nhờ Đào Thanh Đ. Đ thấy H vẫy tay thì đi đến chỗ H. Tại đây, H nhờ Đ điều khiển xe ô tô của anh C chạy ra hướng thị trấn Plei Kần. Khi xe do Đ điều khiển đi đến lô cao su thuộc đội 8 Công ty 732 thì bị mắc lầy không đi được nên H, Đ bỏ qua xe bán tải do L điều khiển đi về nH trọ của H ở đường Hoàng Thị Loan, trị trấn Plei Kần.

Như vậy, mặc dù biết r Đỗ Ngọc H và Bùi Xuân L có lời lẽ xúc phạm, chống đối nhằm lấy lại xe ô tô chở gỗ vi phạm đang do lực lượng liên ngành áp giải, nhưng khi được H nhờ điều khiển xe ô tô này đi nơi khác, bị cáo Đào Thanh Đ chẳng những không can ngăn mà ngược lại còn đồng ý thực hiện, tạo điều kiện cho H tiếp tục thực hiện tội phạm.

Hnh vi trên của Đào Thanh Đ đã phạm vào tội “Chống người thi Hành  công vụ” quy Đ tại khoản 1 Điều 257 Bộ luật Hình sự năm 1999, với vai trò là người giúp sức cho Đỗ Ngọc H. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện NH truy tố bị cáo theo điều luật vừa nêu, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, thấy rằng: Hành vi của Đào Thanh Đ là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động của các cơ quan quản lý Hành  chính NH nước; làm mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt một mức án nghiêm nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng - giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử thấy:

Trước khi phạm tội trong vụ án này, vào ngày 30-12-2014 Đào Thanh Đ đã bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Đ xử phạt 03 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” chưa được xóa án tích, nên bị cáo phải chịu quy Đ tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo luôn thành khẩn khai báo, đồng thời biết ăn năn, hối cải về việc làm của bản thân – đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 mà bị cáo được hưởng. Bên cạnh đó, hiện nay bị cáo đang là lao động chính trong gia đình (có cha mẹ già yếu, bệnh tật, vợ chưa có việc làm – được chính quyền địa phương xác nhận), nên được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngoài ra, bị cáo Đào Thanh Đ tham gia thực hiện tội phạm với vai trò đồng phạm giúp sức, bản thân bị cáo ngay từ đầu không có ý Đ chống đối lực lượng chức năng, nhưng khi được Đỗ Ngọc H lôi kéo, vì cả nể H cùng với sự hiểu biết pháp luật hạn chế nên mới phạm tội. Do vậy, cũng cần giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, sớm cải tạo thành người có ích.

[5] Trong vụ án này, Đào Thanh Đ bị bắt theo quyết Đ truy nã của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện NH. Dù vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng: Vụ án này xảy ra đã lâu, và theo Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2017/HSST ngày 31-3- 2017 của Tòa án nhân dân huyện NH thì Đào Thanh Đ không phạm tội. Mặt khác, hồ sơ vụ án và kết quả xét hỏi tại phiên tòa thể hiện: Trước khi bị khởi tố, điều tra thì bị cáo Đ đã đi nơi khác làm ăn, hoàn toàn không biết bản thân đang bị Cơ quan điều tra truy tìm cho đến thời điểm bị bắt. Do vậy, không có cơ sở để xác Đ Đào Thanh Đ có Hành  vi bỏ trốn sau khi thực hiện tội phạm.

[6] Với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, về vai trò và các tình tiết tăng nặng - giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Đào Thanh Đ như đã phân tích, đánh giá ở trên, thấy rằng: Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất Đ mới có tác dụng giáo dục người phạm tội, đồng thời cũng nhằm để răn đe, phòng ngừa chung.

[7] Trong vụ án này, cùng phạm tội với Đào Thanh Đ còn có các đối tượng Đỗ Ngọc H và Bùi Xuân L, nhưng L và H đã bị Tòa án nhân dân huyện NH xét xử bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật.

[8] Về vật chứng của vụ án đã được xử lý trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử Đỗ Ngọc H và Bùi Xuân L.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo Đào Thanh Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy Đ của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đào Thanh Đ phạm tội “Chống người thi hành  công vụ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 257, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999;

- Xử phạt bị cáo Đào Thanh Đ 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi Hành  án, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 26-11-2019 đến ngày 09-01-2020).

2. Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội và danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án (Ban Hành  kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội);

- Buộc bị cáo Đào Thanh Đ phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về kháng cáo: Áp dụng các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 08-6-2020), bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HS-ST ngày 08/06/2020 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hồi - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về