Bản án 23/2020/HSST ngày 01/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 23/2020/HSST NGÀY 01/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/2020/HSST, ngày 18/5/2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2020/QĐXXST-HS, ngày 20/5/2020, đối với bị cáo:

Hoàng Đức B, sinh năm 1995;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu P, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Hoàng Văn S (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba;

Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/3/2020 đến ngày 08/3/2020 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương.

Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

- Anh Lê Văn M- sinh năm 1998.

Địa chỉ: Khu P, phường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương. - Anh Vũ Tiến D- sinh năm 1984.

Địa chỉ: Khu V, phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 05/3/2020, Hoàng Đức B nhờ anh Lê Văn M- sinh năm 1998 ở cùng khu chở đi chơi. Anh M dùng xe mô tô biển kiểm soát 34B4-017.93 của bố đẻ là Lê Văn H, chở B đến khu vực ga PT, huyện KT để B gặp bạn. Đến nơi M đỗ xe ở ngoài chờ còn B đi bộ vào khu vực trong ga. B gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 700.000đ ma túy đá để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, B cầm trong tay và đi ra tiếp tục nhờ M chở về huyện NS. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi đến cây xăng B thuộc địa phận thôn Đ, xã Đ, huyện NS thì B rủ anh M cùng sử dụng ma túy nhưng M không đồng ý và nói là đi về. Lực lượng Công an huyện NS tuần tra kiểm soát đã tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang trong lòng bàn tay phải của Hoàng Đức B 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng, B khai là ma túy đá.

Tại Bản kết luận giám định số 149/KLGĐ- PC09 ngày 08/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu giữ của Hoàng Đức B gửi đến giám định khối lượng là 1,214gam là ma túy, loại Methamphetamine, nằm trong danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 20/CT-VKS-NS ngày 15/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương truy tố Hoàng Đức B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Hoàng Đức B thành khẩn khai nhận như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, xử bị cáo mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Đức B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Đức B từ 16 đến 19 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 05/3/2020; về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 149/KLGĐ- PC09 của phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương bên trong có 1,087g Methamphetamine cùng vỏ bao bì hoàn lại sau giám định. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Hoàng Đức B phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào 23 giờ ngày 05/3/2020, tại khu vực cây xăng B thuộc thôn Đ, xã Đ, huyện NS, tỉnh Hải Dương, bị cáo Hoàng Đức B có hành vi cất giấu trái phép 1,214 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách phát hiện, bắt quả tang.

[3] Hành vi của bị cáo Hoàng Đức B là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự và ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc cất giữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo Hoàng Đức B là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy rằng:

Bị cáo Bình không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo B thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố mẹ đẻ được tặng thưởng Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Ba và Huy chương vì giai cấp Nông dân Việt Nam. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo B nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách có thu giữ của bị cáo gồm 01 gói nilon kích thước 2 x 2,5cm chứa 1,214g ma túy loại Methamphetamine. Sau khi giám định, cơ quan giám định hoàn lại 1,087g Methamphetamine cùng vỏ bao bì mẫu vật đựng trong phong bì niêm phong số 149/KLGĐ- PC09 của phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương. Methamphetamine là chất cấm tàng trữ, lưu hành; vỏ bao bì mẫu vật không có giá trị sử dụng. Do vậy cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 34B4-017.93 tạm giữ của anh Lê Văn M, sau khi xác minh làm rõ chủ sở hữu là ông Lê Văn H không biết không liên quan nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho ông H là phù hợp.

[8] Đối với anh Lê Văn M chở B nhưng không biết B đi mua ma túy và khi B rủ sử dụng ma túy đã từ chối nên không xử lý đối với anh M là phù hợp.

[9] Đối với người đàn ông bán ma túy cho B ở khu vực ga PT nhưng không rõ đặc điểm, căn cước nên chưa có căn cứ để xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Đức B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Đức B 19 (Mười chín) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 05/3/2020, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

3. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 149/KLGĐ- PC09 của phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương bên trong có 1,087g Methamphetamine cùng vỏ bao bì hoàn lại sau giám định.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Hoàng Đức B phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hoàng Đức B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HSST ngày 01/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về