Bản án 23/2020/HS-PT ngày 20/02/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 23/2020/HS-PT NGÀY 20/02/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2019/TLPT-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thái T (tên gọi khác: M) đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2019/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thái T (tên gọi khác: M), sinh năm 1986 tại Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký HKTT: tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thái D và con bà Nguyễn Thị Thanh T; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/12/2018, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn N, văn phòng luật sư Trần và cộng sự - thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1962; địa chỉ: Khu phố 2, phường 1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 15 phút ngày 20/12/2018, Nguyễn Thái T đem 50 viên ma túy tổng hợp đến phòng số 07 quán Karaoke T, thuộc thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị để bán cho những người có nhu cầu mua ma túy để sử dụng. Tại đây, T gặp Nguyễn Tùng L; trú tại: thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Nguyễn Bá R; trú tại: thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị và Trần Mỹ H; trú tại: thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị đang hát Karaoke. Đến khoảng 23 giờ 20 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đ tiến hành kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ trong người T 50 viên ma túy tổng hợp; thu giữ của Linh 01 bao nylon có chứa thảo mộc khô; thu giữ của Rin 01 bao nylon màu trắng có chứa 03 viên ma túy tổng hợp và thu giữ một số tài sản khác.

Mở rộng điều tra khám xét nơi ở bị cáo vào ngày 21/12/2018 thu giữ 1.026 viên ma túy tổng hợp; ngày 29/12/2018, Nguyễn Thái T tự nguyện giao nộp 3.986 viên ma túy tổng hợp.

Quá trình điều tra Nguyễn Thái T khai nhận: Do quen biết từ trước nên Đặng Hữu H; trú tại: thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị thống nhất bán cho T 01 viên ma túy là 40.000đồng, T đồng ý. Nên khoảng 16 giờ ngày 16/12/2019, H giao cho T 06 gói ma túy tổng hợp; T đưa về phòng ngủ của mình cất dấu ở tủ giày dép. Sau đó, T bán cho Nguyễn Bá R 02 viên ma túy tổng hợp với giá 120.000đồng.

Ngày 18/12/2018, H tiếp tục giao cho T 20 gói ma túy tổng hợp; sau đó, T đưa số ma túy trên về cất dấu ở thùng để đồ nghề sửa chữa xe mô tô của nhà mình để bán kiếm lời.

Ngày 19/12/2018, T bán cho Nguyễn Vũ L; trú tại: thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị 04 viên ma túy tổng hợp với giá 240.000đồng và một số đối tượng nghiện trên địa bàn thành phố Đ.

Quá trình khám xét thu giữ: 5.062 viên ma túy tổng hợp; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu kem, màn hình cảm ứng; 01 xe mô tô hiệu HONDA biển kiểm soát 74H1-7097; tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành 13.000.000đồng; 01 chai nhựa cao 17cm, rộng 06cm, cách đáy 4cm có 01 lỗ tròn có cắm tờ tiền mệnh giá 5.000đồng; 01 bình thủy tinh cao 12cm, rộng 7cm, có nắp bằng nhựa, có 02 lỗ tròn ở trên nắp được cắm bởi 02 ống nhựa; 01 hộp catong đựng ắc quy hiệu Storm Rider có kích thước (12x10x6cm); 01 hộp giấy màu đỏ ký hiệu OP có nắp đậy bằng nhựa có kích thước (8x13x10cm); 02 bản sao hộ khẩu; 01 bản sao sổ tạm trú; 01 bản sao giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 004026 biển kiểm soát 74H4-7097 mang tên Lê Thị Tú N; 01 bản sao giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị Tú Nhi. Đã trả lại cho chủ sở hữu 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA số loại Wave ANPHA biển kiểm soát 74H4-7097; chuyển hồ sơ vụ án 02 sổ hộ khẩu; 01 sổ tạm trú; 01 bản sao giấy đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 74H4-7097 và 01 bản sao giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị Tú N.

Tại bản giám định số 95 ngày 29/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận:

- Mẫu M1: 198 viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1 gửi đến giám định có khối lượng 18,6365g là ma túy loại Methamphetamine. 02 viên nén màu xanh được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1 gửi đến giám định có khối lượng 0,1735 là ma túy loại Methamphetamine.

- Mẫu M2: 184 viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M2 gửi đến giám định có khối lượng 17,3814g là ma túy loại Methamphetamine. 03 viên nén màu xanh được niêm phong trong phong bì ký hiệu M2 gửi đến giám định có khối lượng 0,2583g là ma túy loại Methamphetamine.

- Mẫu M3: 51 viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M3 gửi đến giám định có khối lượng 4,8098g là ma túy loại Methamphetamine. 02 viên nén màu xanh được niêm phong trong phong bì ký hiệu M3 gửi đến giám định có khối lượng 0,1836 là ma túy loại Methamphetamine.

- Mẫu M4: 195 viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M4 gửi đến giám định có khối lượng 18,7125g là ma túy loại Methamphetamine.

- Mẫu M5: 198 viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M5 gửi đến giám định có khối lượng 18,8467g là ma túy loại Methamphetamine. 02 viên nén màu xanh được niêm phong trong phong bì ký hiệu M5 gửi đến giám định có khối lượng 0,1696 là ma túy loại Methamphetamine.

- Mẫu M6: 189 viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M6 gửi đến giám định có khối lượng 18,0269g là ma túy loại Methamphetamine. 02 viên nén màu xanh được niêm phong trong phong bì ký hiệu M6 gửi đến giám định có khối lượng 0,1736 là ma túy loại Methamphetamine.

- Mẫu A1: 50 viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 gửi đến giám định có khối lượng 4,7003g là ma túy loại Methamphetamine.

Tổng cộng: 1.076 viên nén (1.065 viên nén màu hồng; 11 viên nén màu xanh). Tổng khối lượng: 102,0727g Methamphetamine.

Tại bản giám định số 119 ngày 07/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận:

Các viên nén màu hồng và màu xanh được niêm phong trong các phong bì ký hiệu lần lượt từ B1 đến B20 gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng như sau:

- Mẫu B1: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,7381g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1735g Methamphetamine.

- Mẫu B2: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,7318g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1903g Methamphetamine.

- Mẫu B3: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 19,5048g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1932g Methamphetamine.

- Mẫu B4: 195 viên nén màu hồng có khối lượng 18,5163g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1741g Methamphetamine.

- Mẫu B5: 190 viên nén màu hồng có khối lượng 18,4412g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1885g Methamphetamine.

- Mẫu B6: 195 viên nén màu hồng có khối lượng 18,5268g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1864g Methamphetamine.

-Mẫu B7: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,7963g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1940g Methamphetamine.

- Mẫu B8: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 19,4513g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1971g Methamphetamine.

- Mẫu B9: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 19,5693g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1929g Methamphetamine.

-Mẫu B10: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 19,5122g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1851g Methamphetamine.

-Mẫu B11: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,6933g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1781g Methamphetamine.

-Mẫu B12: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,7985g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1873g Methamphetamine.

-Mẫu B13: 197 viên nén màu hồng có khối lượng 18,6396g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1797g Methamphetamine.

-Mẫu B14: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,7383g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1793g Methamphetamine.

-Mẫu B15: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,5591g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1660g Methamphetamine.

-Mẫu B16: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,7188g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1693g Methamphetamine.

-Mẫu B17: 199 viên nén màu hồng có khối lượng 18,7190g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1673g Methamphetamine.

-Mẫu B18: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,90461g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1932g Methamphetamine.

-Mẫu B19: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,7212g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1698g Methamphetamine.

-Mẫu B20: 198 viên nén màu hồng có khối lượng 18,6721g Methamphetamine.

02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,1763g Methamphetamine.

Tổng cộng: 3.986 viên nén (3.946 viên nén màu hồng, 40 viên nén màu xanh).

Tổng khối lượng: 380,5841g Methamphetamine.

Bản án 43/2019/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thái T (tên gọi khác: M) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy ”.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thái T: Tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20/12/2018.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/10/2019 bị cáo Nguyễn Thái T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Thái T trình bày giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Bị cáo T kháng cáo trong hạn luật định, do vậy xem xét theo trình tự phúc thẩm. Số lượng ma túy của bị cáo bị bắt qủa tang với số lượng ma túy bị cáo tự khai ra và bị thu giữ nhằm để mục đích mua bán trái phép là 482,6568gam ma túy loại Methamphetamine là rất lớn. Bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự và xử phạt tù chung thân là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ hình phạt nào mới. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu và bị cáo bổ sung với nội dung: Bị cáo Nguyễn Thái T có nhiều tình tiết giảm nhẹ là thật thà khai báo, ăn năn hối cải và tự thú. Bản thân chưa có tiền án tiền sự; ông bà nội, ngoại và mẹ bị cáo là người có công. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Ngày 03 tháng 10 năm 2019, bị cáo Nguyễn Thái T kháng cáo B 43/2019/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị. Như vậy, kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thái T là trong thời hạn luật định, do vậy được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Thái T nhận tội. Lời khai nhận tội của của bị cáo T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 20/12/2018, tại quán Karaoke T thuộc khu phố 8, phường 1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ trong người của Nguyễn Thái T 50 viên ma túy tổng hợp. Ngày 21/12/2018, khám xét nơi ở của bị cáo tiếp tục thu giữ 1.026 viên ma túy tổng hợp; đến ngày 29/12/2018, T tiếp tục tự nguyện giao nộp 3.986 viên ma túy tổng hợp. Toàn bộ số ma túy nêu trên Nguyễn Thái T khai nhận mua về để sử dụng và bán lại kiếm lời. Số ma túy thu giữ được theo kết luận giám định có tổng khối lượng 482,6568g là ma túy loại Methamphetamine. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thái T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Về mức hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá về tính chất hành vi phạm tội, khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà bị cáo T được hưởng và xử phạt bị cáo Nguyễn Thái T tù chung thân. Mặc dù, bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ; nhưng khối lượng ma túy của bị cáo bị thu giữ nhằm mua bán trái phép là rất lớn, gần gấp 05 lần của khối lượng khởi điểm khung hình phạt. Do vậy, mức án cấp sơ thẩm xử phạt là có căn cứ và thỏa đáng. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, do vậy không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thái T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đối với kiến nghị của bà Nguyễn Thị Thanh T về số tiền 10.000.000 đồng thu giữ của bị cáo T. Bà T cho rằng đây là tiền bà cho T mượn để T trả tiền mua xe mô tô. Tuy nhiên, cả bị cáo T và bà T đều không đưa ra được chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ. Do vậy, không chấp nhận kiến nghị của bà T về nội dung này. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tịch thu sung ngân sách Nhà nước là có căn cứ.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thái T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thái T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thái T: Tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 20/12/2018.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thái T phải chịu 200.000đ.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HS-PT ngày 20/02/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:23/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về