Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 29/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 23/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI DƯỠNG CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 7 năm 2020. Tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 39/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2020 về việc Ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con khi ly hôntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 15/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15/7/2020 giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Mai H.

Địa chỉ: Tổ dân Phố P3, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt tại phiên tòa.

2- Bị đơn: Anh Phạm Văn D.

Địa chỉ: Tổ dân Phố P3, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai – Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21/02/2020 và các bản tự khai của chị Phạm Thị Mai H cùng toàn bộ tài liệu chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án thì chị Phạm Thị Mai H và anh Phạm Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai vào ngày 01/3/1995. Sau ngày kết hôn, vợ chồng về chung sống hoà thuận hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính dẫn đến việc chị Phạm Thị Mai H làm đơn xin ly hôn anh Phạm Văn D là do bất đồng quan điểm trong làm ăn và tạo dựng cuộc sống gia đình, nuôi dậy con cái, dẫn đến vợ chồng cãi chửi nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình. Khi mâu thuẫn sảy ra vợ chồng đã được gia đình, anh em khuyên giải nhiều lần nhưng đều không có kết quả. Thực tế vợ chồng đã tự sống ly thân từ cuối năm 2008 cho đến nay, không ai quan tâm thăm hỏi gì nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa. Đến nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Phạm Thị Mai H có yêu cầu và nguyện vọng xin được ly hôn với anh Phạm Văn D.

Về con chung: Chị Phạm Thị Mai H xác nhận chị và anh Phạm Văn D, chung sống với nhau đến nay đã có 02 con chung. Cháu lớn: Phạm Đức M - Sinh ngày: 04/12/1996; Cháu thứ hai: Phạm Hương L - Sinh ngày: 05/10/2004. Hiện nay các cháu đều khỏe mạnh phát triển bình thường cháu Phạm Đức M đã trưởng thành trên 18 tuổi do vậy khi ly hôn chị Phạm Thị Mai H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với cháu Phạm Hương L hiện đang ở cùng với chị Phạm Thị Mai H tại Tổ dân Phố P3, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai. Khi ly hôn chị Phạm Thị Mai H có yêu cầu và nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Hương L cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị không yêu cầu anh Phạm Văn D phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Mai H xác nhận trong thời gian chung sống chị và anh Phạm Văn D có tạo dựng được một số tài sản chung nhưng trị giá không lớn. Khi ly hôn chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Chị Phạm Thị Mai H xác nhận trong thời gian chung sống chị và anh Phạm Văn D không vay mượn gì của ai và cũng không cho ai vay mượn gì. Nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Trình bày những quan điểm về thủ tục tố tụng tại phiên tòa cũng như trong quá trình giải quyết vụ án. Tòa án đã thực hiện đầy đủ các bước thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật cố tình trốn tránh gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên Tòa án đã tiến hành các biện pháp tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam; Khoản 4 Điều 147; Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử cho chị Phạm Thị Mai H ly hôn với anh Phạm Văn D.

Xử giao cháu Phạm Hương L - Sinh ngày: 05/10/2004 cho chị Phạm Thị Mai H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Phạm Hương L trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Phạm Văn D không phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.

Tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Mai H và anh Phạm Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai ngày 01/3/1995. Đây là một hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau ngày kết hôn vợ chồng về chung sống hoà thuận hạnh phúc đã có 02 con chung với nhau, đến cuối năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính dẫn đến việc chị Phạm Thị Mai H làm đơn xin ly hôn anh Phạm Văn D là do quan điểm, cách sống của vợ chồng không thống nhất với nhau trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình, nuôi dậy con, dẫn đến vợ chồng thường xuyên sảy ra cãi chửi lẫn nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình, cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc. Thực tế vợ chồng đã tự sống ly thân từ cuối năm 2008 cho đến nay. Anh Phạm Văn D bỏ nhà đi đâu không rõ lý do thỉnh thoảng mới trở về thăm con rồi lại đi. Trong thời gian này vợ chồng không quan tâm gì đến nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn ngày 21/02/2020 chị Phạm Thị Mai H làm đơn khởi kiện xin được ly hôn với anh Phạm Văn D.

Đối với anh Phạm Văn D trong quá trình giải quyết vụ án thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú do vậy việc tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Phạm Văn D Tòa án không thể tiến hành được đã phải thực hiện việc niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật để anh Phạm Văn D thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên anh Phạm Văn D không những không trả lời Tòa án bằng văn bản về những yêu cầu và nguyện vọng của mình đối với yêu cầu xin ly hôn và nuôi dưỡng con chung của chị Phạm Thị Mai H mà thậm chí anh Phạm Văn D cố tình trốn tránh, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Do vậy vụ án này Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay chị Phạm Thị Mai H vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn đối với anh Phạm Văn D với lý do tình cảm vợ chồng không còn mâu thuẫn đã trầm trọng không thể khắc phục được.

Xét yêu cầu của chị Phạm Thị Mai H và đề nghị của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với các qui định tại Khoản 1 Điều 56 luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Bởi lẽ mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị Mai H và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ đúng pháp luật.

[2].Về con chung: Tại phiên tòa hôm nay và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chị Phạm Thị Mai H xác nhận: Chị và anh Phạm Văn D, chung sống với nhau đến nay đã có 02 con chung Cháu lớn: Phạm Đức M - Sinh ngày: 04/12/1996; Cháu thứ hai: Phạm Hương L - Sinh ngày: 05/10/2004. Hiện nay các cháu đều khỏe mạnh phát triển bình thường cháu Phạm Đức M đã trưởng thành trên 18 tuổi do vậy khi ly hôn chị Phạm Thị Mai H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên không xem xét giải quyết.

Đối với cháu Phạm Hương L; Sinh ngày: 05/10/2004 hiện đang ở cùng với chị tại Tổ dân Phố P3, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai. Khi ly hôn chị Phạm Thị Mai H có yêu cầu và nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Hương L cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị không yêu cầu anh Phạm Văn D phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.

Xét yêu cầu của chị Phạm Thị Mai H và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc để chị Phạm Thị Mai H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Hương L là có căn cứ. Bởi lẽ kể từ khi anh chị xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân thì anh Phạm Văn D thường xuyên bỏ nhà đi không quan tâm gì đến chị và cháu. Mặt khác bản thân chị Phạm Thị Mai H làm nghè may có mức thu nhập ổn định. Do vậy để đảm bảo sự ổn định cho cháu về tâm lý cũng như trong sinh hoạt và quyền lợi về mọi mặt của cháu. Hội đồng xét xử cần giữ nguyên hiện trạng về việc nuôi dưỡng con chung và giao cháu Phạm Hương L cho chị Phạm Thị Mai H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với tâm tư nguyện vọng của cháu và phù hợp với các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.

[3]Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Mai H xác nhận trong thời gian chung sống chị và anh Phạm Văn D có tạo dựng được một số tài sản chung nhưng trị giá không lớn, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về công nợ chung: Chị Phạm Thị Mai H xác nhận trong thời gian chung sống chị và anh Phạm Văn D không vay mượn gì của ai và cũng không cho ai vay mượn gì. Nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam; Khoản 4 Điều 147; Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị Mai H ly hôn với anh Phạm Văn D.

2.Về con chung: Xử giao cháu Phạm Hương L - Sinh ngày: 05/10/2004 cho chị Phạm Thị Mai H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Phạm Hương L trưởng thành đủ 18 tuổi.

Anh Phạm Văn D không phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung. Sau khi ly hôn, anh Phạm Văn D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3.Về án phí: Chị Phạm Thị Mai H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn nhưng được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: 0009858 ngày 25/02/2020 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện B, tỉnh Lào Cai.

Xác nhận chị Phạm Thị Mai H đã nộp đủ tiền án phí Dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 29/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn

Số hiệu:23/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về