Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 23/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 23/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 23 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 13/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2020 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2020/QĐST-HNGĐ ngày 02/6/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Minh T, sinh năm 1992; Trú tại: Ấp A, xã B, huyện D, tỉnh Bình Dương. Nơi ở hiện nay: Ấp C, xã E, huyện D, tỉnh Bình Dương;

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1989; Trú tại: Ấp A, xã B, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương;

Nguyên đơn bà T vắng mặt có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; bị đơn ông Đ vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện nộp ngày 25/12/2019, quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Trần Thị Minh T trình bày:

Bà Trần Thị Minh T và ông Nguyễn Xuân Đ chung sống với nhau từ năm 2012, hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương vào ngày 20/02/2012. Trong quá trình chung sống vợ chồng không hợp tính tình, ông Đ thường xuyên nhậu nhẹt, không lo lắng làm ăn bà T nhắc nhở thì ông Đ không sửa chữa mà mâu thuẫn vợ chồng càng Thường xuyên phát sinh hơn. Khoảng cuối tháng 12 năm 2019 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn ông Đ có đánh đập và cầm dao đe dọa bà T, khiến bà T phải báo sự việc cho chính quyền địa phương và dẫn các con về nhà mẹ ruột tại ấp C, xã E, huyện D, tỉnh Bình Dương sinh sống cho đến nay. Bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông Nguyễn Xuân Đ.

Quá trình chung sống, bà T và ông Đ có 02 con chung tên Nguyễn Thụy Tuyết N, sinh ngày 27/3/2012 và Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 09/8/2017. Tại đơn khởi kiện bà Trần Thị Minh T nhận trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung và yêu cầu ông Đ cấp dưỡng hai con mỗi tháng 2.000.000 đồng (1.000.000 đồng/con/tháng) cho đến khi con đủ 18 tuổi. Ngày 23/4/2020 bà T có đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện; theo đó bà T nhận trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Ngoài ra, bà T không có yêu cầu khác, không cung cấp chứng cứ gì thêm.

* Bị đơn ông Nguyễn Xuân Đ: Bị đơn đã được Toà án thông báo về việc thụ lý vụ án, tống đạt các văn bản tố tụng Nhưng không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố và không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương có ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn bà T đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định; bà T vắng mặt tại phiên tòa Nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt là phù hợp quy định của pháp luật. Bị đơn ông Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai Nhưng không chấp hành quy định của pháp luật tố tụng, vắng mặt tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa nhận thấy mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông Đ là trầm trọng, không hàn gắn đoàn tụ được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Minh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn bà T khởi kiện yêu cầu ly hôn và về việc nuôi con đối với bị đơn ông Nguyễn Xuân Đ; ông Đ có hộ khẩu thường trú tại ấp A, xã B, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương nên căn cứ theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương; quan hệ pháp luật tranh chấp là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

[1.2] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 02/6/2020 và ngày 23/6/2020 Nng đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Minh T và ông Nguyễn Xuân Đ chung sống với nhau từ năm 2012, hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 12 ngày 20/02/2012. N vậy, hôn nhân giữa bà T và ông Đ là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận.

Bà T trình bày trong quá trình chung sống vợ chồng không hợp tính tình, ông Đ thường xuyên nhậu nhẹt, không lo lắng làm ăn bà T nhắc nhở thì ông Đ không sửa chữa mà mâu thuẫn vợ chồng càng thường xuyên phát sinh hơn. Khoảng cuối tháng 12 năm 2019 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn ông Đ có đánh đập và cầm dao đe dọa bà T, khiến bà T phải báo sự việc cho chính quyền địa phương và dẫn các con về nhà mẹ ruột tại ấp C, xã E, huyện D, tỉnh Bình Dương sinh sống và ly thân cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông Nguyễn Xuân Đ. Theo biên bản xác minh ngày 11/3/2020 của Tòa án tại Ban lãnh đạo ấp A, xã B, huyện D, tỉnh Bình Dương thể hiện bà T và ông Đ có xảy ra xô xát, địa phương phải đến hòa giải. Do đó, trình bày của nguyên đơn là có cơ sở.

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, đã tiến hành triệu tập nguyên đơn, bị đơn đến làm việc, hòa giải nhằm mục đích hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng nguyên đơn kiên quyết xin ly hôn, có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, bị đơn không có mặt. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của bị đơn và nguyên đơn thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn.

Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải quan tâm, quý trọng, Tơng yêu, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Từ việc nguyên đơn từ chối hòa giải, bị đơn không tham gia hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở để xác định tình trạng hôn nhân của bà T, ông Đ đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc bà T yêu cầu ly hôn với ông Đ là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2] Về con chung:

Bà T và ông Đ có 02 con chung tên Nguyễn Thụy Tuyết N, sinh ngày 27/3/2012 và Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 09/8/2017. Hiện các cháu đang sống cùng bà T nên bà T yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung. Tại đơn khởi kiện bà T yêu cầu ông Đ cấp dưỡng hai con mỗi tháng 2.000.000 đồng (1.000.000 đồng/con/tháng) cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, ngày 23/4/2020 bà T có đơn xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện; theo đó bà T nhận trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt của con chưa thành niên. Trong suốt quá trình tố tụng mặc dù đã được Tòa án niêm yết các văn bản có nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn về vấn đề con chung cho bị đơn được biết nhưng bị đơn không có ý kiến gì; mặt khác yêu cầu của nguyên đơn phù hợp với nguyện vọng của cháu Nguyễn Thụy Tuyết N; đối với cháu Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 09/8/2017 hiện còn nhỏ. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy việc giao con chung tên Nguyễn Thụy Tuyết N, sinh ngày 27/3/2012 và Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 09/8/2017 cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn bà T về việc không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án, các thủ tục tố tụng, quá trình tiến hành tố tụng cũng N diễn biến tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Nguyên đơn bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Minh T đối với ông Nguyễn Xuân Đ về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Minh T được ly hôn với ông Nguyễn Xuân Đ.

1.2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thụy Tuyết N, sinh ngày 27/3/2012 và Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 09/8/2017 cho bà Trần Thị Minh T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị Minh T về việc không yêu cầu ông Nguyễn Xuân Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Trần Thị Minh T và ông Nguyễn Xuân Đ đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí: Bà Trần Thị Minh T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm mà bà T đã nộp theo biên lai thu số: AA/2016/0032391 ngày 14 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 23/06/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:23/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về